6 tỉnh miền Tây khiến du khách tới là yêu
Sau chuyến đi qua 6 tỉnh miền Tây, vùng đất dễ thương dễ nhớ này khiến hành trình của chúng tôi thật nhiều kỷ niệm, với thiên nhiên thơ mộng và lòng người hiền hòa.
Đi miền Tây, bạn không cần quá nhiều tiền, không sợ lạc đường, không lo bị chém giá, vì trên cung đường đơn giản bạn có thể đi từ tỉnh này qua tỉnh khác, và người dân cực kỳ thân thiện.
1 - Cần Thơ nổi tiếng với chợ nổi Cái Răng. Ở đây nhộn nhịp du khách nước ngoài. Bạn có thể thuê một xuồng dành cho 2 người giá 300.000 đồng hoặc một nhóm người đi chung để được chở đi dạo chơi, thăm thú chợ nổi buổi sớm mai. Chợ nổi được coi là đặc sản của Cần Thơ với khách du lịch tới đây tham quan. Khoảng 5-6h30 là khoảng thời gian đẹp nhất để tham quan chợ nổi. Bạn có thể đứng trên xuồng để gọi mua hàng. Các thuyền sẽ được neo vào nhau đến khi trao đổi hàng hóa xong.
2 - Hậu Giang với những mảng nước đóng rêu xanh ngát, bên những hàng cây mọc cao bao quanh. Ở đây, tôi cảm giác như lạc vào một miền cổ tích màu xanh tràn đầy nhựa sống.Hoàng hôn trên cầu Mỹ Thuận, khi tôi trên đường đến thành phố Vĩnh Long. Ngắm hoàng hôn ở trên những chiếc cầu cao miền sông nước mà một thú vui bạn nên trải qua khi về với miền Tây.
3 - Vĩnh Long, bạn có thể ngồi trò chuyện cùng nhau bên bờ kè dọc sông Tiền, giữa gió mây, sông nước mênh mông, mát rượi. Ở đây còn có du thuyền nhỏ dành cho khách muốn vừa uống cà phê vừa dạo chơi trên sông. Khoảng cách từ trung tâm thành phố Vĩnh Long tới Cần Thơ khoảng hơn 30 km. Thời gian đẹp nhất là đi vào sáng sớm, để thấy trăng soi bóng nước, và kịp đi chợ nổi Cần Thơ lúc nhộn nhịp nhất.
4 - “Cà Mau xa lắm, ở tận cùng bản đồ Việt Nam”, đến khi đi mới thấy câu đó hoàn toàn chính xác. Đường đến Mũi Cà Mau xa tít, nhưng bù lại rất nên thơ. Đến đây bạn sẽ được trải nghiệm những cảm giác rất thú vị và hết sức lạ lùng.
Bạn sẽ được đi bộ một vòng vành đai ở đất mũi, tận cuối là rừng tràm xanh ngát. Đến đây, đừng bỏ lỡ việc ngắm hoàng hôn và ở homestay “xịn”
5 - Kiên Giang, bạn nên đi đường Xuyên Á. Đây là con đường mới, khá vắng và cảnh quan thoáng mát, đẹp. Lúc hoàng hôn xuống, đi đường này, nghe cùng một bản nhạc thì quá tuyệt vời Đến Kiên Giang, đừng quên ăn bún cá, uống nước gấc đặc sản Ban đêm, hãy uống cà phê lề đường ở Lạ Hồng quán, ban ngày ra Bến Du Thuyền cà phê. Đây là nơi có view đẹp như Tây, dành cho các bạn mê chụp hình.
6 - Đồng Tháp, đừng quên ăn hủ tiếc Sa Đéc và đi làng hoa Sa Đéc, để sống trong sự nhiệt tình mến khách của người miền Tây Kết thúc chuyến hành trình 6 ngày với các tỉnh miền Tây, chúng tôi đã trải qua nhiều cảm giác rất thú vị. Cảnh vật đôi khi lặp lại, nhưng mỗi nơi, mỗi tỉnh đều cho những cảm nhận riêng
( Theo Thủy Phan Zing.vn )
Bải Đã Đăng
1
Monday, October 23, 2017
Tuesday, September 26, 2017
Vũng Tàu hình ảnh 50 năm về trước
==>
Vũng Tàu là một thành phố ven biển, một địa điểm du lịch nổi tiếng của Việt Nam. Thành phố biển này thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ở vùng Đông Nam Bộ Việt Nam, vũng Tàu giáp Bà Rịa và huyện Long Điền, nằm trên bán đảo cùng tên và có cả đảo Long Sơn, cáchSài Gòn 125 km về phía Đông Nam theo đường bộ và 80 km theo đường chim bay. Nếu nhìn theo chiều Bắc Nam, Vũng Tàu nằm ở khúc quanh đang đổi hướng từ Nam sang Tây của phần dưới chữ S (bản đồ Việt Nam) và nhô hẳn ra khỏi đất liền như một dải đất có chiều dài khoảng 14 km và chiều rộng khoảng 6 km. Đây là nơi người ta có thể ngắm nhìn biển Đông cả khi mặt trời mọc lẫn lúc hoàng hôn.
Vũng Tàu có núi Lớn (núi Tương Kỳ) cao 245 m và núi Nhỏ (núi Tao Phùng) cao 170 m. Trên núi Nhỏ có ngọn hải đăng cao 18 m, chiếu xa tới 30 hải lý, Trước kia vùng đất này là bãi lầy, nơi thuyền buôn nước ngoài thường vào trú đậu nên gọi là Vũng Tàu. Các nhà hàng hải Bồ Đào Nha khi đi qua mũi đất này đã lấy tên Thánh Giắc đặt cho nó, do đó người Pháp gọi nơi này là Cap Saint Jacques (do mũi đất mang tên thánh Jacques),
Người Việt theo đó gọi là Cấp (gốc tiếng Pháp: Cap) hoặc Ô Cấp (gốc tiếng Pháp: au Cap). Hiện nay mũi đất cực đông của Vũng Tàu có tên gọi là "mũi Nghinh Phong", Vũng Tàu cũng từng có tên là Tam Thoàn hay Tam Thắng để ghi lại sự kiện thành lập ba làng đầu tiên ở đây: Thắng Nhất, Thắng Nhị, Thắng Tam. Chữ Tam Thắng là biến âm của Tam Thoàn, tức Ba Thuyền ...,theo sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức thì "Thuyền Úc", tục danh Vũng Tàu... phía bắc ôm cửa Tắc Khái (cửa sông Dinh), phía nam đỡ núi Thát Sơn để che cửa Cần Giờ ,Mặt vụng trông về hướng tây, rộng lớn mông mênh để thu nạp các dòng nước sông đầm chảy về biển mà làm nơi êm đềm cho thuyền bè ẩn đậu.", Vũng Tàu từng thuộc trấn, sau là tỉnh Biên Hòa thời nhà Nguyễn. Thời vua Gia Long (1761-1820), khi nạn hải tặc Mã Lai hoành hành tại vùng biển này là mối đe dọa cho các thương nhân vùng Gia Định, vua đã gửi ba đội quân đến dẹp loạn và cho phép ba tướng cầm đầu cùng quân lính ở lại mở đất.
Theo sắc của vua Minh Mạng năm 1822, chính 3 ông đội Phạm Văn Dinh, Lê Văn Lộc, Ngô Văn Huyền thuộc ba đội binh (Tam Thoàn) đã thành lập ba làng đầu tiên: Thắng Nhất, Thắng Nhị, Thắng Tam, Ngày 10 tháng 2 năm 1859 tức mồng 8 Tết Kỷ Mùi, quan quân nhà Nguyễn đã khai hỏa lần đầu tiên những khẩu súng thần công đặt ở pháo đài Phước Thắng, cao 30 m và cách bờ biển Bãi Trước gần 100 m, bắn vào đoàn chiến thuyền của liên quân Pháp-Tây Ban Nha do tướng Rigault de Genouilly chỉ huy trên đường vào xâm lược Nam Kỳ, mở đầu cuộc kháng chiến chống quân Pháp ở Nam Kỳ. Trong trận này Thống chế Trần Đồng, Tổng chỉ huy lực lượng thủy lục quân nhà Nguyễn đã hy sinh ,Năm 1876 Vũng Tàu thuộc tiểu khu Bà Rịa, nằm trong khu vực (circonscription) Sài Gòn, theo nghị định phân chia hành chính của thực dân Pháp, ngày 1 tháng 5 năm 1895 Thống đốc Nam Kỳ ra nghị định tách thị xã Cap Saint Jacques ra khỏi tiểu khu Bà Rịa để lập thành phố tự trị (commune autonome) Cap Saint Jacques, đến ngày 20 tháng 1 năm 1898, Cap Saint Jacques hợp nhất trở lại với tiểu khu Bà Rịa thành khu Cap Saint Jacques cho đến năm 1899 lại tách ra thành hai đơn vị hành chính độc lập. Ngày 14 tháng 1 năm 1899 khu Cap Saint Jacques thành lập tổng Vũng Tàu gồm 7 xã.
Năm 1901, dân số Vũng Tàu là 5.690 người, trong đó có gần 2.000 người di cư từ miền Bắc vào, sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt thủy hải sản, ngày 1 tháng 4 năm 1905 theo nghị định của Toàn quyền Đông Dương, Cap Saint Jacques không còn là thành phố tự trị và trở thành đại lý hành chính thuộc tỉnh Bà Rịa ,năm 1929 Cap Saint Jacques trở thành tỉnh riêng, rồi đến năm 1934 tỉnh Cap Saint Jacques lại hạ cấp xuống thành thành phố (commune) , hiện tại, Vũng Tàu có diện tích 140,1 km² gồm 16 phường và 1 xã với dân số khoảng 310 000 người(năm 2010).
Vũng Tàu có nhiều bãi biển đẹp như bãi Sau (Thùy Vân), bãi Trước (Tầm Dương), bãi Dứa (Hương Phong), bãi Dâu (Phương Thảo) cùng bãi tắm Long Hải , ngoài ra có nhiều nơi tham quan như chùa Thích Ca Phật Đài, tượng Chúa Kitô Vua, Bạch Dinh, Núi Nhỏ, Núi Lớn.
ST Facebook
Friday, September 15, 2017
Bát Bún Riêu
Từ Eau Claire, theo đường liên tỉnh 53 ngược lên mạn Bắc, đến Solon
Spring thì rẽ phải theo hương lộ P nhỏ hẹp ngoằn ngoèo len mình giữa khu
rừng phong ngút ngàn trùng điệp. Tiếp tục thêm vài dậm, vòng qua những
lưng đồi thoai thoải dốc là tới thung lũng Nebagamon cạnh đặc khu Lac
Court Oreilles của người Da Đỏ.
Trời vào Thu, rừng phong đã thay chiếc áo choàng màu hồng lựu!
Hơn nửa giờ xe, không một bóng người! Ngoài tiếng gió thở dài, tiếng lá khô xào xạc, tiếng rừng cây trăn trở, không còn một âm thanh nào khác. Tôi cảm tưởng như lạc vào một hành tinh xa lạ không sinh vật.
Đồi lại đồi liên liên tiếp nối tay nhau...
Hơn nửa giờ xe, không một bóng người! Ngoài tiếng gió thở dài, tiếng lá khô xào xạc, tiếng rừng cây trăn trở, không còn một âm thanh nào khác. Tôi cảm tưởng như lạc vào một hành tinh xa lạ không sinh vật.
Đồi lại đồi liên liên tiếp nối tay nhau...
Sau cùng, tới Nebagamon. Nơi đây có viện Dưỡng Lão Lakeview mà theo lịch trình mỗi năm tôi phải đến một lần để thanh tra y vụ.
Lần đầu tiên đến đây nên tôi không khỏi ngỡ ngàng. Tưởng dù hẻo lánh đến đâu ít ra cũng có xóm làng, một giáo đường nho nhỏ hay vài ngôi nhà be bé xinh xinh, nhưng tuyệt đối “không”. Ngoài rừng phong đổ lá chỉ có hồ nước trong veo xanh ngắt màu trời!
Lần đầu tiên đến đây nên tôi không khỏi ngỡ ngàng. Tưởng dù hẻo lánh đến đâu ít ra cũng có xóm làng, một giáo đường nho nhỏ hay vài ngôi nhà be bé xinh xinh, nhưng tuyệt đối “không”. Ngoài rừng phong đổ lá chỉ có hồ nước trong veo xanh ngắt màu trời!
“Trung
Tâm An Dưỡng Lakeview”, như tên gọi, ẩn mình dưới tàng cây sồi rợp bóng
trên khu đất rộng, quay lưng vô rừng thông, nhìn ra mặt hồ phẳng lặng
như gương.
Tôi ngẫm nghĩ:
-Nơi nầy có thể là điểm nghỉ ngơi lý tưởng cho những người quanh năm lao lực hoặc những ai muốn tìm sự quên lảng. Còn chọn làm viện dưỡng lão thì...” hơi tàn nhẫn “!
-Nơi nầy có thể là điểm nghỉ ngơi lý tưởng cho những người quanh năm lao lực hoặc những ai muốn tìm sự quên lảng. Còn chọn làm viện dưỡng lão thì...” hơi tàn nhẫn “!
Tuổi
già vốn đã cô đơn mà nơi đây lại hầu như cách biệt với thế giới bên
ngoài. Trừ y tá y công và vài chuyên viên dịch vụ thì chẳng còn ai khác.
Người nào cũng bận bù đầu rảnh rỗi đâu mà tán gẩu với người già? Nhất
là sau buỗi cơm chiều khi hoàng hôn buông xuống, ai nấy đều về nhà thì
bóng đêm chắc sẽ thật dài....
Vừa đẩy cửa bước vào tôi đã giật mình vì gặp một hàng 6 chiếc xe lăn đang “giàn chào”. Trên mỗi xe là một lão ông hoặc lão bà độ bảy tám mươi, mái tóc bạc phơ, mắt hom hem sau làn mục kỉnh. Có người trông còn sáng suốt, người thì như xác không hồn. Họ chăm chú nhìn tôi từø đầu đến chân như quan sát một quái nhân đến từ hành tinh xa lạ.
Vừa đẩy cửa bước vào tôi đã giật mình vì gặp một hàng 6 chiếc xe lăn đang “giàn chào”. Trên mỗi xe là một lão ông hoặc lão bà độ bảy tám mươi, mái tóc bạc phơ, mắt hom hem sau làn mục kỉnh. Có người trông còn sáng suốt, người thì như xác không hồn. Họ chăm chú nhìn tôi từø đầu đến chân như quan sát một quái nhân đến từ hành tinh xa lạ.
Có lẽ vì tôi là người Á Châu duy nhứt tới đây chăng?
Cô y tá hướng dẫn như đoán được cảm nghĩ của tôi, bèn nhoẻn cười:
-Ông ngạc nhiên hả?
Tôi ngập ngừng:
-Chắc họ biết hôm nay tôi đến nên hiếu kỳ muốn trông thấy mặt?
Cô ta khẻ lắc đầu:
-Mỗi ngày đều như vậy. Sáng nào họ cũng ngồi đó để mong chờ...
-Chờ thân nhân tới đón?
-Không!
-Hay bè bạn đến thăm?
Cô y tá hướng dẫn như đoán được cảm nghĩ của tôi, bèn nhoẻn cười:
-Ông ngạc nhiên hả?
Tôi ngập ngừng:
-Chắc họ biết hôm nay tôi đến nên hiếu kỳ muốn trông thấy mặt?
Cô ta khẻ lắc đầu:
-Mỗi ngày đều như vậy. Sáng nào họ cũng ngồi đó để mong chờ...
-Chờ thân nhân tới đón?
-Không!
-Hay bè bạn đến thăm?
Cô y tá phì cười, pha trò:
-Ông nghĩ...già ngần ấy tuổi mà còn ham bạn gái sao?
-Ý tôi là bạn thông thường.
-Nếu những người bạn ấy chưa nằm xuống thì cũng đang ngồi xe lăn như họ tại một viện dưỡng lão nào đó.
Rồi ngậm ngùi:
-Họ mong chờ những hình bóng không bao giờ đến, xa xôi trong hồi ức....
Và khẻ thở dài:
-Tôi làm việc ở đây hơn mười năm, đã chứng kiến nhiều hoạt cảnh. Tháng nào cũng có người mới tới và cũng có người vĩnh viễn ra đi.
-Chắc ít nhiều lòng cô cũng phần nào xao xuyến?
-Thật tình mà nói. Lúc đầu thì có, nhưng giờ đã quen rồi.
-Cô rất mãnh cảm!
-Là do luyện tập thôi, bằng không sẽ ngã quị.
-Ông nghĩ...già ngần ấy tuổi mà còn ham bạn gái sao?
-Ý tôi là bạn thông thường.
-Nếu những người bạn ấy chưa nằm xuống thì cũng đang ngồi xe lăn như họ tại một viện dưỡng lão nào đó.
Rồi ngậm ngùi:
-Họ mong chờ những hình bóng không bao giờ đến, xa xôi trong hồi ức....
Và khẻ thở dài:
-Tôi làm việc ở đây hơn mười năm, đã chứng kiến nhiều hoạt cảnh. Tháng nào cũng có người mới tới và cũng có người vĩnh viễn ra đi.
-Chắc ít nhiều lòng cô cũng phần nào xao xuyến?
-Thật tình mà nói. Lúc đầu thì có, nhưng giờ đã quen rồi.
-Cô rất mãnh cảm!
-Là do luyện tập thôi, bằng không sẽ ngã quị.
Chúng tôi vào thang máy lên tầng trên. Một cụ già chống gậy tập tễnh vô theo.
Cô y tá nhìn ông ta và hỏi:
-Ông đi lên hay đi xuống?
Cụ đáp như cái máy, giọng nói khò khè yếu ớt khó nghe:
-Đi xuống... đi lên...đi xuống....đi lên.
Tôi nhận thấy ông ta chẳng nhìn ai cả, ánh mắt không hồn đăm đăm hướng về phương trời vô định.
Cô y tá nhìn ông ta và hỏi:
-Ông đi lên hay đi xuống?
Cụ đáp như cái máy, giọng nói khò khè yếu ớt khó nghe:
-Đi xuống... đi lên...đi xuống....đi lên.
Tôi nhận thấy ông ta chẳng nhìn ai cả, ánh mắt không hồn đăm đăm hướng về phương trời vô định.
Dường như quá quen thuộc với những hiện tượng nầy, cô y tá thản nhiên nói:
-Vậy mời ông bước ra chờ, chuyến sau sẽ có người cùng đi với. Chúng tôi đang bận.
Cô bèn nắm tay dẫn ông cụ ra ngoài rồi lạnh lùng khép cửa.
Tôi thắc mắc:
-Nếu ông ấy lại tiếp tục bấm nút thang máy thì sao?
-Chúng tôi đã lượng trước điều ấy nên tất cả nút các điện trong viện đều gắn rất cao, người già không với tới.
-Thì ra vậy!
-Vậy mời ông bước ra chờ, chuyến sau sẽ có người cùng đi với. Chúng tôi đang bận.
Cô bèn nắm tay dẫn ông cụ ra ngoài rồi lạnh lùng khép cửa.
Tôi thắc mắc:
-Nếu ông ấy lại tiếp tục bấm nút thang máy thì sao?
-Chúng tôi đã lượng trước điều ấy nên tất cả nút các điện trong viện đều gắn rất cao, người già không với tới.
-Thì ra vậy!
Công tác xong, trời cũng về chiều. Tôi từ giã. Cô y tá tiễn tôi ra cửa.
Đoàn xe lăn vẫn còn “giàn chào”.
Đoàn xe lăn vẫn còn “giàn chào”.
Chợt
trông thấy trong góc tối, một ông lão độ trên dưới tám mươi đang cô đơn
ngồi bất động trên xe lăn như pho tượng cũ. Điểm khác biệt khiến tôi
chú ý là ông ta không phải người da trắng và cũng không hòa nhập vào
toán “dàn chào”.
Da
ông màu đồng nâu có nhiều vết nhăn đậm nét thời gian hằn trên mặt. Mái
tóc bạc phơ rủ lòa xòa trên trán.Vóc người bé nhỏ, mắt hom hem trân trối
nhìn tôi như muốn nói điều gì. Tôi đoán chừng ông là thổ dân Da Đỏ.
Hiếu kỳ, tôi hỏi cô y tá:
-Viện dưỡng lão nầy cũng nhận người Indian sao? Tôi nghỉ là trách nhiệm của chính phủ Liên Bang chứ?
-Viện dưỡng lão nầy cũng nhận người Indian sao? Tôi nghỉ là trách nhiệm của chính phủ Liên Bang chứ?
Cô ta ngạc nhiên:
-Sao ông hỏi vậy?
Tôi trỏ ông lão ngồi xe lăn:
-Không phải Indian là gì?
Cô y tá phì cười:
-Ông ta người Á Đông đó.
Tôi giật mình:
-Người Á Đông?
- Phải. Dường như là Việt Nam.
-Sao ông hỏi vậy?
Tôi trỏ ông lão ngồi xe lăn:
-Không phải Indian là gì?
Cô y tá phì cười:
-Ông ta người Á Đông đó.
Tôi giật mình:
-Người Á Đông?
- Phải. Dường như là Việt Nam.
Thêm một kinh ngạc. Tôi không ngờ nơi vùng đất hẻo lánh đìu hiu lạnh lẽo nầy cũng có người Việt định cư. Tôi bèn hỏi dồn.
-Sao cô biết ông ta người Việt?
-Hồ sơ có ghi rõ.
-Ông ấy vào đây lâu chưa?
-Hơn mười năm.
-Sao cô biết ông ta người Việt?
-Hồ sơ có ghi rõ.
-Ông ấy vào đây lâu chưa?
-Hơn mười năm.
Cô khẻ lắc đầu:
-Tội nghiệp! Ông ta rất hiền lành dễ thương, ai cũng mến, nhưng hiềm chẳng nói được tiếng Anh nên suốt ngày thui thủi một mình, không có bạn.
-Thân nhân ông ấy có thường xuyên tới thăm không?
-Một lần, cách nay lâu lắm.
-Tội nghiệp! Ông ta rất hiền lành dễ thương, ai cũng mến, nhưng hiềm chẳng nói được tiếng Anh nên suốt ngày thui thủi một mình, không có bạn.
-Thân nhân ông ấy có thường xuyên tới thăm không?
-Một lần, cách nay lâu lắm.
..
Lòng se lại. Hẳn có uẩn khúc gì đây? Không thể cam tâm quay mặt làm ngơ
trước người đồng hương đang gặp cảnh bẽ bàng nơi đất khách, tôi tự giới
thiệu:
-Tôi cũng là người Việt....
-Tôi cũng là người Việt....
Cô ta trố mắt:
-Thế mà tôi đinh ninh ông là người Trung Hoa.
Tôi cười:
-Trong mắt người Tây phương, bất cứ ai da vàng cũng là Tàu.
Cô pha trò:
-Cũng đâu phải lạ. Hiệu ăn Tàu nhan nhãn khắp nơi, ngay trong xóm Da Đỏ hẻo lánh tít mù trên mạn Bắc cũng có. Lần nào qua đó tôi cũng ghé mua cơm chiên, chả giò, vừa ngon vừa rẻ, nhưng phải tội là...
-Thế mà tôi đinh ninh ông là người Trung Hoa.
Tôi cười:
-Trong mắt người Tây phương, bất cứ ai da vàng cũng là Tàu.
Cô pha trò:
-Cũng đâu phải lạ. Hiệu ăn Tàu nhan nhãn khắp nơi, ngay trong xóm Da Đỏ hẻo lánh tít mù trên mạn Bắc cũng có. Lần nào qua đó tôi cũng ghé mua cơm chiên, chả giò, vừa ngon vừa rẻ, nhưng phải tội là...
Tôi nhoẻn cười:
-Mỡ dầu và bột ngọt hơi nhiều!
Cô ta cũng cười xòa:
-Phải nói là nhiều quá mới đúng. Khổ công tập thể dục cả tháng, ăn một bữa cơm Tàu là đâu vào đấy, có khi “thặng dư “ .
Tôi quay lại vấn đề:
-Tôi muốn tiếp xúc với ông lão người Việt để chào hỏi làm quen. Có thể ông ấy cũng đang cần người nói chuyện vì lâu lắm chưa có dịp.
-Mỡ dầu và bột ngọt hơi nhiều!
Cô ta cũng cười xòa:
-Phải nói là nhiều quá mới đúng. Khổ công tập thể dục cả tháng, ăn một bữa cơm Tàu là đâu vào đấy, có khi “thặng dư “ .
Tôi quay lại vấn đề:
-Tôi muốn tiếp xúc với ông lão người Việt để chào hỏi làm quen. Có thể ông ấy cũng đang cần người nói chuyện vì lâu lắm chưa có dịp.
Cô y tá mừng rỡ:
-Hay lắm, đó cũng là điều chúng tôi mong muốn. Vùng nầy hẻo quá lánh không thể tìm ra người thông dịch. Nhân tiện nhờ ông hỏi xem ông ấy có nhu cầu hay đề nghị gì hầu chúng tôi đáp ứng.
-Vâng, tôi sẽ cố gắng.
-Hay lắm, đó cũng là điều chúng tôi mong muốn. Vùng nầy hẻo quá lánh không thể tìm ra người thông dịch. Nhân tiện nhờ ông hỏi xem ông ấy có nhu cầu hay đề nghị gì hầu chúng tôi đáp ứng.
-Vâng, tôi sẽ cố gắng.
Thấy tôi đi tới, ông lão ngước lên nhướng đôi mắt hom hem nhìn chòng chọc, vừa ngạc nhiên vừa thoáng chút ngại ngùng.
Tôi gật đầu chào:
-Chào cụ.
Nét mặt rạng niềm vui, giọng nói run run vì xúc động:
-Dạ...chào thầy. Thầy là...người Việt?
Tôi gật đầu chào:
-Chào cụ.
Nét mặt rạng niềm vui, giọng nói run run vì xúc động:
-Dạ...chào thầy. Thầy là...người Việt?
Giọng ông hơi nặng và chân thật. Tôi thân mật nắm tay ông:
-Thưa cụ, cháu cũng là người Việt như cụ!
Ông lão nghẹn ngào:
-Cảm ơn Thiên Chúa, cảm ơn Đức Mẹ từ bi đã cho tui gặp ông.
Tôi kéo ghế ngồi bên cạnh và bắt đầu trò chuyện.
-Thưa cụ. Vì sao cụ cho là cuộc gặp gỡ hôm nay do Thiên Chúa và Đức mẹ sắp đặt?
-Đêm nào tui cũng cầu nguyện ơn trên cho tui gặp người đồng hương...
-Có chuyện khẩn cấp gì không, thưa cụ?
-Để được nói chuyện bằng tiếng Việt thôi.
-Thưa cụ, cháu cũng là người Việt như cụ!
Ông lão nghẹn ngào:
-Cảm ơn Thiên Chúa, cảm ơn Đức Mẹ từ bi đã cho tui gặp ông.
Tôi kéo ghế ngồi bên cạnh và bắt đầu trò chuyện.
-Thưa cụ. Vì sao cụ cho là cuộc gặp gỡ hôm nay do Thiên Chúa và Đức mẹ sắp đặt?
-Đêm nào tui cũng cầu nguyện ơn trên cho tui gặp người đồng hương...
-Có chuyện khẩn cấp gì không, thưa cụ?
-Để được nói chuyện bằng tiếng Việt thôi.
Cụ thở dài:
-Lâu lắm rồi...tui chưa được nói hay nghe tiếng mẹ đẻ.
Nhối trong tim. Tôi bùi ngùi thương cảm. Một ước mơ đơn giản quá mà sao quá xa vời. Chúng tôi bắt đầu trò chuyện. Ông kể:
-Tên tui là Tỉnh, Nguyễn văn Tỉnh... Trước kia ở Bình Tuy, làm nghề biển, có thuyền đánh cá, tuy không giàu nhưng cuộc sống cũng sung túc. Có vợ, ba con trai, đứa lớn nhứt nếu còn sống thì giờ đã gần 50. Năm 75 cộng sản tràn vào, cả nước kéo nhau chạy nạn. Sẳn phương tiện trong tay, tui bèn chở vợ con vượt thoát. Nhưng chẳng may sau ba ngày lênh đênh trên mặt biển thì gặp bão lớn, tàu chìm. Tui và đứa con út lên sáu may mắn được tàu Mỹ vớt còn vợ và hai đứa lớn thì mất tích.
-Lâu lắm rồi...tui chưa được nói hay nghe tiếng mẹ đẻ.
Nhối trong tim. Tôi bùi ngùi thương cảm. Một ước mơ đơn giản quá mà sao quá xa vời. Chúng tôi bắt đầu trò chuyện. Ông kể:
-Tên tui là Tỉnh, Nguyễn văn Tỉnh... Trước kia ở Bình Tuy, làm nghề biển, có thuyền đánh cá, tuy không giàu nhưng cuộc sống cũng sung túc. Có vợ, ba con trai, đứa lớn nhứt nếu còn sống thì giờ đã gần 50. Năm 75 cộng sản tràn vào, cả nước kéo nhau chạy nạn. Sẳn phương tiện trong tay, tui bèn chở vợ con vượt thoát. Nhưng chẳng may sau ba ngày lênh đênh trên mặt biển thì gặp bão lớn, tàu chìm. Tui và đứa con út lên sáu may mắn được tàu Mỹ vớt còn vợ và hai đứa lớn thì mất tích.
Sau đó tui được bảo trợ về Louisiana. Nơi đây có đông người đồng hương
nên cũng đỡ buồn. Tui bắt đầu tái tạo sự nghiệp, hùn hạp với bạn bè mua
tàu đánh cá làm việc ngày đêm, trước để vơi buồn, sau là tạo dựng tương
lai cho thằng Út, giọt máu cuối cùng còn sót lại.
Tui ước mong thằng bé sẽ theo cha học nghề biển, nhưng nó không muốn.
Nó chỉ thích làm bác sĩ kỷ sư ngồi nhà mát chớ không chịu giải nắng dầm
mưa như bố. Thế nên vừa xong Trung Học là nó quyết chọn trường xa để
tiếp tục Đại Học.
Ông ngừng lại một chút dễ dằn cơn xúc động rồi ngậm ngùi kể tiếp:
-Tui chỉ còn một mình nó. Không thể sống xa con nên quyết định bán hết tài sản để dọn theo. Bạn bè ai cũng ngăn cản, nhưng tui quyết giữ lập trường, mang hết tiền dành dụm đến Tiểu Bang nầy mua một căn nhà nhỏ ở ngoại ô, còn lại chút ít thì gửi vào quỉ tiết kiệm lấy lời sống qua ngày. Hai cha con đùm bọc nhau, cuộc sống tuy chẳng sung túc nhưng cũng nhẹ nhàng.
-Tui chỉ còn một mình nó. Không thể sống xa con nên quyết định bán hết tài sản để dọn theo. Bạn bè ai cũng ngăn cản, nhưng tui quyết giữ lập trường, mang hết tiền dành dụm đến Tiểu Bang nầy mua một căn nhà nhỏ ở ngoại ô, còn lại chút ít thì gửi vào quỉ tiết kiệm lấy lời sống qua ngày. Hai cha con đùm bọc nhau, cuộc sống tuy chẳng sung túc nhưng cũng nhẹ nhàng.
Tuổi ngày một già sức khỏe càng yếu. Năm ấy trời làm mưa đá, tui bị ngã
gãy chân. Bác sĩ cho biết xương già không lành được, phải vĩnh viễn phải
ngồi xe lăn.
Thằng Út ra trường, có việc làm tốt ở Nữu Ước. Tự biết khó thể theo con
và không muốn làm trở ngại bước tiến thân của nó, tui muốn xin vào viện
dưỡng lão. Tôi lên tiếng trước cho nó khỏi bị khó xử. Nó giúp tui làm
thủ tục và hứa khi việc làm yên ổn sẽ đón tui về.
Các
viện dưỡng lão tương đối khá đều hết chỗ. May thay đang lúc bối rối,
thì có anh bạn học người Da Đỏ mách cho nơi nầy. Thấy con buồn tui bèn
an ủi nó: “Nơi nào cũng là quê người, giống nhau thôi. Thỉnh thoảng con
về thăm là bố vui rồi”.
Thế là cả ngôi nhà lẩn tiền dành dụm đều phải trao hết cho viện dưỡng lão. Dĩ nhiên là tui được nhận.
Ánh mắt xa xôi nhìn về phía chân trời đang có đàn chim chiều đang xoải cánh, ông chép miệng:
-Nhanh quá....Mới đó đã mười năm.
-Thưa cụ, thời gian qua chắc anh Út cũng thường về thăm cụ?
-Một năm sau nó có trở lại, khoe với tui hình cô gái Mỹ và nói là “dâu tương lai của bố đấy”. Rồi....từ đó biệt tăm luôn.
-Cụ hoàn toàn không biết tin tức gì về anh ấy?
-Không, mà thật tình... tui cũng không muốn biết.
-Tại sao? Anh ấy là con trai duy nhứt của cụ mà? Cháu sẽ giúp cụ tìm anh ấy.
-Nhanh quá....Mới đó đã mười năm.
-Thưa cụ, thời gian qua chắc anh Út cũng thường về thăm cụ?
-Một năm sau nó có trở lại, khoe với tui hình cô gái Mỹ và nói là “dâu tương lai của bố đấy”. Rồi....từ đó biệt tăm luôn.
-Cụ hoàn toàn không biết tin tức gì về anh ấy?
-Không, mà thật tình... tui cũng không muốn biết.
-Tại sao? Anh ấy là con trai duy nhứt của cụ mà? Cháu sẽ giúp cụ tìm anh ấy.
Ông lão rớm nước mắt:
-Tui sợ lắm... Thà biền biệt như thế mà tui vẫn tin tưởng là nó đang sống tốt với vợ con ở nơi nào đó trên quả đất, còn hơn là biết tin buồn. Quả tình, tui không kham nổi.
-Tui sợ lắm... Thà biền biệt như thế mà tui vẫn tin tưởng là nó đang sống tốt với vợ con ở nơi nào đó trên quả đất, còn hơn là biết tin buồn. Quả tình, tui không kham nổi.
Tôi nghẹn lời không nói được. Chập sau, qua cơn xúc động, tôi hỏi:
-Giờ đây cụ có ước nguyện gì xin cho biết, cháu sẽ hết lòng giúp với tất cả khả năng mình.
-Giờ đây cụ có ước nguyện gì xin cho biết, cháu sẽ hết lòng giúp với tất cả khả năng mình.
Ông lão thở dài:
-Già rồi, còn được mấy năm trước mặt?
Ánh mắt chợt linh động, ông nhìn tôi và chép miệng:
-Tôi thèm một bát bún riêu!
-Già rồi, còn được mấy năm trước mặt?
Ánh mắt chợt linh động, ông nhìn tôi và chép miệng:
-Tôi thèm một bát bún riêu!
Hai tuần sau, vào ngày Chúa nhựt, tôi nhờ chị bạn thân nấu giùm hai bát
bún riêu cua, bún nước để riêng, có đầy đủ chanh, rau, nước mắm, ớt
hiểm tươi, đặc biệt còn thêm lọ mắm ruốc thật ngon. Tôi cho tất cả vào
túi xách đem đến viện dưỡng lão Lakeview.
Mất hơn 4 giờ đường, sau cùng tôi đã tới. Như lần trước, ông lão vẫn
ngồi trên xe lăn gần cửa sổ cuối phòng. Bất ngờ trông thấy tôi, ông mừng
rỡ kêu lên:
-Kìa thầy...Lại về đây công tác à?
-Kìa thầy...Lại về đây công tác à?
Tôi chạy tới nắm tay ông:
-Lần nầy cháu chỉ đến thăm cụ. Cháu có món quà đặc biệt mang biếu cụ.
-Lần nầy cháu chỉ đến thăm cụ. Cháu có món quà đặc biệt mang biếu cụ.
Lộ vẻ cảm động, cụ nhoẻn cười đuôi mắt nhăn nheo.
-Bầy vẽ làm chi hà...Thầy đến thăm tui là quí rồi...
-Bầy vẽ làm chi hà...Thầy đến thăm tui là quí rồi...
Tôi xin phép ban quản lý đưa cụ ra vườn. Vì thức ăn nặng mùi mắm ruốc
nên tôi phải mang theo một lò cồn nhỏ để đun nóng ngoài trời. Cụ chăm
chú nhìn tôi sớt bún ra tô, trộn rau ghém, nêm mắm ruốc, châm nước dùng
sôi nghi ngút bốc hơi, rắc chút tiêu thơm lên lớp gạch cua nổi vàng trên
mặt, nặn hai lát chanh tươi và sau cùng là ba quả ớt hiểm đỏ thơm nồng
cay xé lưỡi. Không nén được thèm thuồng, chốc chốc cụ lại nuốt nước bọt.
Tôi đặt tô bún riêu trước mặt và mời cụ cầm đũa. Cụ run giọng:
-Cám ơn...cám ơn thầy. Không ngờ hôm nay tui còn được ăn bát bún riêu cua... Mời thầy cùng ăn cho vui.
-Cháu đã ăn xong ở nhà. Xin cụ dùng tự nhiên...Bún riêu còn nhiều, hết tô nầy cháu sẽ hâm tô khác.
-Cám ơn...cám ơn thầy. Không ngờ hôm nay tui còn được ăn bát bún riêu cua... Mời thầy cùng ăn cho vui.
-Cháu đã ăn xong ở nhà. Xin cụ dùng tự nhiên...Bún riêu còn nhiều, hết tô nầy cháu sẽ hâm tô khác.
Cụ trịnh trọng húp từng muỗng xúp, gắp từng đũa bún, cắn từng miếng ớt
cay ngon lành như chưa từng được ăn ngon. Chốc chốc cụ dừng tay để lau
mồ hôi và luôn mồm khen tấm tắc :
-Bún riêu ngon quá. Mắm ruốc thơm quá!
-Bún riêu ngon quá. Mắm ruốc thơm quá!
Tôi cảm động đặt tay lên vai cụ:
-Nếu cụ bằng lòng nhận cháu làm con, cháu sẽ thay anh Út thường xuyên thăm viếng cụ.
-Nếu cụ bằng lòng nhận cháu làm con, cháu sẽ thay anh Út thường xuyên thăm viếng cụ.
Cụ sững sờ nhìn tôi thật lâu như không tin ở tai mình rồi hai dòng nước mắt từ từ lăn dài trên đôi má cóp.
-Tui có được diễm phúc như vậy sao?
-Tui có được diễm phúc như vậy sao?
Tôi yêu cầu ban quản lý ghi tên tôi vào danh sách thân nhân và dặn dò khi có chuyện cần thì cứ gọi.
Năm sau....
Còn một ngày nữa là Tết. Tôi đã chuẩn bị xong quà cáp, có cả trà thơm
mứt ngọt, dự định sáng hôm sau, mồng một đầu năm sẽ mang lên Lakeview
mừng tuổi cụ.
Đang ngon giấc chợt có chuông điện thoại. Tôi nhấc ống nghe, bên kia đầu giây, tiếng cô y tá trực của viện Dưỡng Lão Lakeview:
-Xin lỗi... phải ông Trần?
-Vâng, chính tôi.
-Cụ Tính đau nặng...
-Tình trạng thế nào? Có nguy không?
-Đang nằm phòng hồi sinh bệnh viện thành phố.
-Cám ơn cô, ngày mai tôi sẽ đến.
-Ông nên đi sớm hơn vì sợ không còn dịp.
-Xin lỗi... phải ông Trần?
-Vâng, chính tôi.
-Cụ Tính đau nặng...
-Tình trạng thế nào? Có nguy không?
-Đang nằm phòng hồi sinh bệnh viện thành phố.
-Cám ơn cô, ngày mai tôi sẽ đến.
-Ông nên đi sớm hơn vì sợ không còn dịp.
Tôi rụng rời!
Tuyết rơi càng lúc càng nhiều! Trời trở lạnh. Gió giật từng cơn, hoa tuyết bay nghiêng như ngàn vạn mũi tên bắn vào kiếng nghe rào rào như vải cát. Không gian mờ mịt, rừng phong trắng xóa một màu.
Tuyết rơi càng lúc càng nhiều! Trời trở lạnh. Gió giật từng cơn, hoa tuyết bay nghiêng như ngàn vạn mũi tên bắn vào kiếng nghe rào rào như vải cát. Không gian mờ mịt, rừng phong trắng xóa một màu.
Tuyết phủ một lớp dầy trên mặt đất. Tôi rà thắng cho xe chạy chậm để khỏi rơi xuống hố.
Sau cùng tới được bệnh viện Hayward.
Sau cùng tới được bệnh viện Hayward.
Cô cô y tá nhìn tôi ái ngại:
-Suốt đêm qua ông ấy cứ gọi tên một người nào đó, không biết phải là ông?
-Cô còn nhớ ông ấy gọi tên gì?
-Chỉ một tiếng duy nhứt, dường như “Ouk” hay “Ouc” gì đó.
Tôi đã hiểu là “thằng Út”.
-Suốt đêm qua ông ấy cứ gọi tên một người nào đó, không biết phải là ông?
-Cô còn nhớ ông ấy gọi tên gì?
-Chỉ một tiếng duy nhứt, dường như “Ouk” hay “Ouc” gì đó.
Tôi đã hiểu là “thằng Út”.
Tôi
hé cửa lách vào, trân trối nhìn ông rồi ngồi xuống bên giường. Người
ông khô đét, hai mắt nhắm nghiền, hơi thở yếu ớt. Tôi nhẹ nhàng đặt tay
lên vầng trán nhăn nheo. Ông chợt cử động rồi thều thào:
-Út...Út...
-Út...Út...
Nước mắt chực trào ra. Giờ phút nầy tôi cần phải làm một điều gì để
giúp ông được mĩn cười trước khi vĩnh biệt. Tôi bóp nhẹ bàn tay già gầy
guộc và nghẹn ngào:
-Thưa cha...con đã về.
-Thưa cha...con đã về.
Mi mắt ông động đậy cố nhướng lên nhìn, rồi kiệt sức nên từ từ khép lại nhưng môi còn mấp máy:
-Út...Út ...con...?
-Phải...Thưa cha con là Út, đứa con bất hiếu đã quay về xin cha tha thứ.
-Út...Út ...con...?
-Phải...Thưa cha con là Út, đứa con bất hiếu đã quay về xin cha tha thứ.
Tôi
cảm được các ngón tay khô gầy đang bắt đầu cữ động trong lòng tay tôi,
cố nắm giữ đứa con yêu đừng có xa rời. Nước mắt tôi vô tình rơi xuống
làn môi khô nứt nẻ đang hé một nụ cười.
“Gia tài” ông để lại là một bọc vải nhỏ, trong ấy có tượng Chúa Giê Su bị đóng đinh trên cây thập giá và tấm hình đen trắng đã trổ vàng chụp gia đình 5 người đoàn tụ, đứa nhỏ nhứt còn bế trên tay, tôi đoán nó tên là Út.
“Gia tài” ông để lại là một bọc vải nhỏ, trong ấy có tượng Chúa Giê Su bị đóng đinh trên cây thập giá và tấm hình đen trắng đã trổ vàng chụp gia đình 5 người đoàn tụ, đứa nhỏ nhứt còn bế trên tay, tôi đoán nó tên là Út.
* * *
Những năm sau, mỗi lần có dịp lên mạn Bắc, tôi đều ghé nghĩa trang thăm ông.
Hôm nay, trời vào Thu! Nghĩa trang chiều hoang vắng quá! Lá vàng từng
chiếc rơi trên mộ. Tôi lặng người nghe khóe mắt rưng rưng...
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.....
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.....
Lê Bảo Trân
Thành Phố Cần Thơ Việt Nam
Thành phố Cần Thơ nằm toàn bộ trên đất có nguồn gốc phù sa sông Mê Kông bồi đắp và được bồi lắng thường xuyên qua nguồn nước có phù sa của dòng sông Hậu. Địa chất trong thành phố được hình thành chủ yếu qua quá trình bồi lắng trầm tích biển và phù sa của sông Cửu Long, trên bề mặt ở độ sâu 50 mét có hai loại trầm tích làHolocen (phù sa mới) và Pleistocene (phù sa cổ).
Địa hình nhìn chung tương đối bằng phẳng, phù hợp cho sản xuất nông, ngư nghiệp, với Độ cao trung bình khoảng 1 – 2 mét dốc từ đất giồng ven sông Hậu, và sông Cần Thơ thấp dần về phía nội đồng tức là từ phía đông bắc sang phía tây nam.Bên cạnh đó, thành phố còn có các cồn và cù lao trên sông Hậu như Cồn Ấu, Cồn Khương, Cồn Sơn, Cù lao Tân Lập. Thành phố Cần Thơ có 3 dạng địa hình chính là Địa hình ven sông Hậu hình thành dải đất cao là đê tự nhiên và các cù lao ven sông Hậu.
Ngoài ra do nằm cạnh sông lớn, Cần Thơ có mạng lưới sông, kênh, rạch khá chằng chịt. Vùng tứ giác Long Xuyên thấp trũng, chịu ảnh hưởng lũ trực tiếp hàng năm. Đồng bằng châu thổ chịu ảnh hưởng triều cùng lũ cuối vụ.
Cần Thơ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, ít bão, quanh năm nóng ẩm, không có mùa lạnh. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 28 °C, số giờ nắng trung bình cả năm khoảng 2.249,2h, lượng mưa trung bình năm đạt 2000 mm. Độ ẩm trung bình năm dao động từ 82% - 87%. Do chịu ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có lợi thế về nền nhiệt độ, chế độ bức xạ nhiệt, chế độ nắng cao và ổn định theo hai mùa trong năm.
Các lợi thế này rất thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển của sinh vật, có thể tạo ra 1 hệ thống nông nghiệp nhiệt đới có năng suất cao, với nhiều chủng loại cây con, tạo nên sự đa dạng trong sản xuất và trong chuyển dịch cơ cấu sản xuất. Tuy nhiên, mùa mưa thường đi kèm với ngập lũ ảnh hưởng tới khoảng 50% diện tích toàn thành phố, mùa khô thường đi kèm với việc thiếu nước tưới, gây khó khăn cho sản xuất và sinh hoạt, nhất là khu vực bị ảnh hưởng của mặn, phèn làm tăng thêm tính thời vụ cũng như nhu cầu dùng nước không đều giữa các mùa của sản xuất nông nghiệp.
Thành phố Cần Thơ có Sông Hậu chảy qua với tổng chiều dài là 65 km,
trong đó đoạn qua Cần Thơ có chiều rộng khoảng 1,6 km. Tổng lượng phù sa
của sông Hậu là 35 triệu m3/năm. Tại Cần Thơ, lưu lượng cực đại đạt mức
40.000 m3/s. Mùa cạn từ tháng 1 đến tháng 6, thấp nhất là vào tháng 3 và tháng 4. Lưu lượng nước trên sông tại Cần Thơ chỉ còn 2.000 m3/s. Mực nước sông lúc này chỉ cao hơn 48 cm so với mực nước biển.
Sông Cần Thơ bắt nguồn từ khu vực nội đồng tây sông Hậu, đi qua các quận Ô môn, huyện Phong Điền, quận Cái Răng, quận Ninh Kiều và đổ ra sông Hậu tại bến Ninh Kiều. Sông Cần Thơ có nước ngọt quanh năm, vừa có tác dụng tưới nước trong mùa cạn, vừa có tác dụng tiêu úng trong mùa lũ và có ý nghĩa lớn về giao thông. Sông Cái Lớn dài 20 km, chiều rộng cửa sông 600 – 700 m, độ sâu 10 – 12 m nên có khả năng tiêu, thoát nước rất tốt.
Bên cạnh đó, thành phố Cần Thơ còn có hệ thống kênh rạch dày đặc, với hơn 158 sông, rạch lớn nhỏ là phụ lưu của 2 sông lớn là Sông Hậu và sông Cần Thơ đi qua thành phố nối thành mạng đường thủy. Các sông rạch lớn khác là sông Bình Thủy, sông Trà Nóc, sông Ô Môn, sông Thốt Nốt, kênh Thơm Rơm và nhiều kênh lớn khác tại các huyện ngoại thành là Thốt Nốt, Vĩnh Thạnh, Cờ Đỏ và Phong Điền, cho nước ngọt suốt hai mùa mưa nắng, tạo điều kiện cho nhà nông làm thủy lợi và cải tạo đất.
Về nguồn gốc chữ "Cần Thơ", có 2 thuyết. Thuyết thứ nhất kể rằng khi chúa Nguyễn Ánh trên đường bôn tẩu, thuyền ngài lênh đênh trên sông Hậu, trong đêm khuya thanh vắng ngài nghe có tiếng ngâm thơ, đờn địch, hò hát hòa nhau rất nhịp nhàng, từ một khúc sông xa vọng lại. Ngài xúc động và đặt tên con sông nhỏ này là "Cầm Thi Giang". Cầm Thi được đọc trại thành Cần Thơ. Một truyền thuyết khác nói là khi xưa vùng Cần Thơ có trồng nhiều rau cần và rau thơm. Mỗi khi chèo ghe đi bán trên sông rạch, chủ ghe thường rao: "Ai mua rau cần thơm không". Rau cần thơm vì vậy đã vào ca dao, và cần thơm đọc trại thành Cần Thơ:
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Sắc lệnh 143-NV được Tổng Thống Ngô Đình Diệm ban hành để "thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Trong đó, chính quyền đổi tên tỉnh Cần Thơ thành tỉnh Phong Dinh, tuy nhiên vẫn giữ lại tên gọi tỉnh lỵ là "Cần Thơ" như cũ. Dưới thời Việt Nam Cộng hòa, địa danh "Cần Thơ" chỉ còn được dùng để chỉ khu vực đô thị tỉnh lỵ của tỉnh Phong Dinh, tuy nhiên đến năm 1970 khu vực này và vùng phụ cận được nâng cấp trở thành thị xã Cần Thơ.
Nếu vào thời nhà Nguyễn độc lập, vùng đất Cần Thơ có tên là "Phong Phú" thì đến thời Việt Nam Cộng hòa, vùng đất này lại mang tên một địa danh mới lạ hoàn toàn và chưa bao giờ xuất hiện trước đó: "tỉnh Phong Dinh".
Sau khi Mạc Cửu mất vào năm Ất Mão 1735, Mạc Thiên Tứ nối nghiệp cha, khai phá thêm vùng hữu ngạn sông Hậu. Năm Kỷ Mùi 1739, Mạc Thiên Tứ thành lập thêm 4 vùng đất mới ở phía hữu ngạn sông Hậu để sáp nhập vào đất Hà Tiên: Long Xuyên (Cà Mau), Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang (Cần Thơ) và Trấn Di (Bắc Bạc Liêu).
Năm 1739, vùng đất Cần Thơ được khai mở và chính thức có mặt trên dư đồ Việt Nam với tên gọi là Trấn Giang, do Mạc Thiên Tích có công khai phá cùng thời với đất Cà Mau, Rạch Giá và Bắc Bạc Liêu. Sau đó cùng sáp nhập vào đất Hà Tiên. Mạc Thiên Tích đã sớm nhận thấy vị trí chiến lược của Trấn Giang - là hậu cứ vững chắc cho Hà Tiên trong việc chống lại quân Xiêm và quân Chân Lạp - nên đã tập trung xây dựng nơi đây thành Thủ sở với các thế mạnh cả về quân sự lẫn kinh tế và văn hoá.
Năm 1771, quân Xiêm tấn công Hà Tiên nhưng không chiếm được Trấn Giang. Năm 1774, nghĩa quân Tây Sơn kéo quân vào Nam đánh chiếm thành Gia Định, sau đó kéo xuống miền Tây và Trấn Giang. Sau trận Rạch Gầm -Xoài Mút (tháng 1 năm 1785), vào năm 1787 quân Tây Sơn rút khỏi các dinh trấn miền Tây, Trấn Giang trở lại dưới quyền bảo hộ của nhà Nguyễn. Suốt thập niên 70 của thế kỷ XVIII, Trấn Giang trở thành một cứ điểm quan trọng và phát triển mạnh trong bối cảnh lịch sử đầy xáo động.
Năm 1808, dưới triều vua Gia Long, đất Trấn Giang thuộc trấn Vĩnh Thanh (trước đó từng có tên là dinh Long Hồ, dinh Hoằng Trấn, Vĩnh Trấn), một trong 5 trấn của Gia Định bấy giờ là: Phiên An, Biên Hoà, Vĩnh Thanh, Định Tường và Hà Tiên. Năm Quý Dậu 1814 (năm Gia Long thứ 12), huyện Vĩnh Định được thành lập. Vùng Cần Thơ thuộc huyện Vĩnh Định (Nam sông Hậu), trấn Vĩnh Thanh (có 2 huyện: Vĩnh An và Vĩnh Định), phủ Định Viễn. Huyện Vĩnh Định có vị trí địa lý: Đông giáp biển, Tây giáp Cao Miên, Nam giáp Hà Tiên, Bắc giáp huyện Vĩnh An và huyện Bình Minh. Vào thời Gia Long, huyện Vĩnh Định chưa chia tổng. Tổ chức hành chánh của huyện được chia thành 37 thôn.
Năm 1832, dưới triều vua Minh Mạng, ngũ trấn được đổi thành lục tỉnh là Biên Hoà, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Đất Cần Thơ ngày nay (tức Trấn Giang ngày xưa) được lập thành huyện Vĩnh Định và cắt về phủ Tân Thành, tỉnh An Giang. Do có nhiều cuộc nội loạn ở vùng Nam Bộ, đặc biệt là cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi (1833-1835) nên thủ sở Trấn Giang vào thời Minh Mạng được tái thiết. Với tiềm năng kinh tế và vị trí địa lý của mình, thương mại Trấn Giang - Cần Thơ đã phát triển khá mạnh với chợ Sưu ở gần bến sông Cần Thơ, chợ Tân An liền hướng bến sông Bình Thủy và chợ Thới An Đông trên vùng gần cửa sông Ô Môn.
Voà năm Minh Mạng thứ 17 (Bính Thân 1836), địa bạ tỉnh An Giang (2 phủ, 4 huyện, 18 tổng, 161 thôn) được hoàn thành. Huyện Vĩnh Định có 4 tổng là Định An, Định Bảo, Định Khánh và Định Thới, phân cấp hành chánh cơ sở thành 30 thôn.
Năm 1839 (năm Minh Mạng thứ 20), huyện Vĩnh Định lại được đổi tên thành huyện Phong Phú, và cho huyện Phong Phú thuộc về phủ Tuy Biên (Châu Đốc), tỉnh An Giang. Huyện Phong Phú có 3 tổng và 31 thôn với huyện trị đặt tại thôn Tân An, ven bờ sông Cần Thơ.
Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là giai đoạn lịch sử có nhiều biến động dữ dội ở Nam Kỳ lục tỉnh. Thực dân Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường) theo hoà ước nhượng bộ của nhà Nguyễn vào năm 1862. Vào các ngày 20, 22 và 24 tháng 6 năm 1867, Pháp vi phạm hòa ước 1862, chiếm 3 tỉnh miền Tây là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.[11]
Huyện Phong Phú có địa giới hành chính Bắc giáp phủ Tân Thạnh và phủ Lạc Hóa, Tây - Bắc giáp huyện Tây Xuyên, Đông - Nam giáp huyện Vĩnh Định, phía Nam có nhiều rừng tràm và hổ báo. Huyện Phong Phú được phân cấp hành chính cơ sở gồm 8 tổng (3 tổng cũ, 5 tổng mới phía Nam sông Hậu). Vào thời điểm này ở huyện Phong Phú có 5 chợ chính là: Cần Thơ, Ô Môn, Bình Thủy, Trà Niềng và Cái Răng.
Ngày 30 tháng 4 năm 1872, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định sáp nhập huyện Phong Phú với vùng Bắc Tràng (thuộc phủ Lạc Hóa, tỉnh Vĩnh Long trước đây) để lập thành một hạt, đặt Toà Bố tại Trà Ôn. Một năm sau, Toà Bố từ Trà Ôn lại dời về Cái Răng.
Ngày 23 tháng 2 năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định mới lấy huyện Phong Phú và một phần huyện An Xuyên và Tân Thành để lập hạt Cần Thơ với thủ phủ là Cần Thơ. Hạt Cần Thơ thuộc khu vực Bassac (Hậu Giang). Hạt Cần Thơ chia làm 11 tổng, 119 làng, dân số 53.910 người.
Năm 1899, Pháp đổi các đơn vị hành chính cấp hạt thành tỉnh và huyện đổi thành quận. Tỉnh Cần Thơ được thành lập theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương trên cơ sở đổi tên gọi tiểu khu hay hạt tham biện (arrondissement) thành tỉnh (province), kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1900. Như vậy, tỉnh Cần Thơ là một trong 20 tỉnh ở Nam Kỳ lúc bấy giờ.
Năm 1917 tỉnh Cần Thơ có diện tích 2.191 km², gồm 4 quận: Châu Thành, Phụng Hiệp, Ô Môn, Cầu Kè. Năm 1921 có thêm quận Trà Ôn. Tỉnh lỵ tỉnh Cần Thơ đặt tại làng Tân An thuộc quận Châu Thành.
Năm 1928, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập các thành phố Bạc Liêu, Cần Thơ, Rạch Giá và Mỹ Tho có Ủy ban thành phố, thị trưởng do chủ tỉnh bổ nhiệm và có ngân sách riêng. Tuy nhiên sau này vẫn thường gọi là thị xã Cần Thơ.
Nghị định ngày 30 tháng 11 năm 1934 sắp xếp đất đai thị xã Cần Thơ thành 5 vùng và 1 vùng ngoại ô để thu thuế thổ trạch.
Từ năm 1876 đến năm 1954, địa giới hành chính tỉnh Cần Thơ dưới quyền kiểm soát của chính quyền Pháp không có sự thay đổi. Tuy nhiên, trong thời gian chiến tranh Đông Dương, chính quyền kháng chiến của Việt Minh có điều chỉnh một phần địa giới hành chính của tỉnh Cần Thơ. Năm 1947, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập thị xã Cần Thơ thuộc tỉnh Cần Thơ. Trong 2 năm 1948 và 1949, tỉnh Cần Thơ nhận thêm huyện Thốt Nốt từ tỉnh Long Xuyên, nhận các huyện Long Mỹ, Gò Quao, Giồng Riềng, thị xã Rạch Giá từ tỉnh Rạch Giá vừa bị giải thể và nhận huyện Kế Sách từ tỉnh Sóc Trăng. Đồng thời, tỉnh Cần Thơ giao 2 huyện Trà Ôn và Cầu Kè về tỉnh Vĩnh Trà (gồm hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh ngày nay).
Sau hiệp định Giơnevơ năm 1954, địa giới hành chính của tỉnh Cần Thơ ở miền Nam có nhiều thay đổi. Ban đầu chính quyền Quốc gia Việt Nam và sau đó là Việt Nam Cộng hòa ban đầu vẫn duy trì tên gọi tỉnh Cần Thơ cùng với thị xã Cần Thơ như thời Pháp thuộc.
Ngày 28 tháng 8 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành Dụ số 50 về việc bãi bỏ quy chế thị xã. Theo quyết định này, bãi bỏ Dụ số 13 ban hành ngày 30 tháng 5 năm 1954 về quy chế thị xã. Những thị xã hiện đặt dưởi quy chế trên, từ nay sẽ theo chế độ thôn xã, và được quản tri bởi một ủy ban hành chính do tỉnh trường bồ nhiệm. Theo đó, tiến hành giải thể thị xã Cần Thơ vốn được lập nên trước đó, đồng thời địa bàn thị xã được chuyển thành xã Tân An trực thuộc tổng Định An, quận Châu Thành, tỉnh Cần Thơ.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh 143-NV để "thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Việt Nam Cộng hòa gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Phong Dinh được thành lập do đổi tên từ tỉnh Cần Thơ. Tỉnh lỵ tỉnh Phong Dinh đặt tại Cần Thơ và vẫn giữ nguyên tên là "Cần Thơ", về mặt hành chánh thuộc xã Tân An, quận Châu Thành.
Năm 1957, tỉnh Phong Dinh có 5 quận: Châu Thành, Phụng Hiệp, Ô Môn, Long Mỹ và Kế Sách. Ngày 23 tháng 2 năm 1957, tỉnh Phong Dinh nhận quận Kế Sách từ tỉnh Ba Xuyên (tức tỉnh Sóc Trăng trước đó) quản lý. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau vào ngày 16 tháng 9 năm 1958, tỉnh Phong Dinh giao lại quận Kế Sách cho tỉnh Ba Xuyên.
Ngày 16 tháng 09 năm 1958, quận Ô Môn đổi tên là quận Phong Phú. Ngày 18 tháng 3 năm 1960 tỉnh Phong Dinh lập thêm quận Đức Long trên cơ sở tách đất từ quận Long Mỹ. Ngày 24 tháng 12 năm 1961, hai quận Đức Long và Long Mỹ được bàn giao cho tỉnh Chương Thiện mới thành lập.
Ngày 2 tháng 7 năm 1962 tỉnh Phong Dinh lập thêm 2 quận Khắc Trung và Khắc Nhơn. Ngày 20 tháng 4 năm 1964, đổi tên 2 quận Khắc Trung và Khắc Nhơn thành Thuận Trung và Thuận Nhơn. Ngày 26 tháng 5 năm 1966 lập thêm quận Phong Điền. Ngày 23 tháng 4 năm 1968, lại lập thêm quận Phong Thuận.
Ngày 30 tháng 9 năm 1970, Thủ tướng chính quyền Việt Nam Cộng hòa Trần Thiện Khiêm ban hành Sắc lệnh số 115-SL/NV cải biến xã Tân An và các phần đất phụ cận (bao gồm xã Thuận Đức, ấp Lợi Nguyên thuộc xã An Bình và ấp Bình Nhựt thuộc xã Long Tuyền) thuộc quận Châu Thành, tỉnh Phong Dinh thành "thị xã Cần Thơ", là thị xã tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương Việt Nam Cộng hòa, đồng thời kiêm tỉnh lỵ tỉnh Phong Dinh. Thị xã Cần Thơ là nơi đặt Bộ tư lệnh Quân khu IV của quân đội Việt Nam Cộng hòa trong cuộc chiến.
Ngày 7 tháng 6 năm 1971, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 585-NĐ/NV thành lập tại thị xã Cần Thơ 2 quận lấy tên là quận 1 (quận Nhứt) và quận 2 (quận Nhì). Địa phận của 2 quận này được phân chia thành 8 khu phố trực thuộc như sau:
Từ đó cho đến năm 1975, thị xã Cần Thơ và tỉnh Phong Dinh là hai đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau theo sự phân chia sắp xếp hành chính của Việt Nam Cộng hòa. Tỉnh Phong Dinh gồm 7 quận: Châu Thành, Phụng Hiệp, Phong Phú, Thuận Nhơn, Thuận Trung, Phong Điền, Phong Thuận.
Địa hình nhìn chung tương đối bằng phẳng, phù hợp cho sản xuất nông, ngư nghiệp, với Độ cao trung bình khoảng 1 – 2 mét dốc từ đất giồng ven sông Hậu, và sông Cần Thơ thấp dần về phía nội đồng tức là từ phía đông bắc sang phía tây nam.Bên cạnh đó, thành phố còn có các cồn và cù lao trên sông Hậu như Cồn Ấu, Cồn Khương, Cồn Sơn, Cù lao Tân Lập. Thành phố Cần Thơ có 3 dạng địa hình chính là Địa hình ven sông Hậu hình thành dải đất cao là đê tự nhiên và các cù lao ven sông Hậu.
Ngoài ra do nằm cạnh sông lớn, Cần Thơ có mạng lưới sông, kênh, rạch khá chằng chịt. Vùng tứ giác Long Xuyên thấp trũng, chịu ảnh hưởng lũ trực tiếp hàng năm. Đồng bằng châu thổ chịu ảnh hưởng triều cùng lũ cuối vụ.
Cần Thơ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, ít bão, quanh năm nóng ẩm, không có mùa lạnh. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 28 °C, số giờ nắng trung bình cả năm khoảng 2.249,2h, lượng mưa trung bình năm đạt 2000 mm. Độ ẩm trung bình năm dao động từ 82% - 87%. Do chịu ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có lợi thế về nền nhiệt độ, chế độ bức xạ nhiệt, chế độ nắng cao và ổn định theo hai mùa trong năm.
Các lợi thế này rất thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển của sinh vật, có thể tạo ra 1 hệ thống nông nghiệp nhiệt đới có năng suất cao, với nhiều chủng loại cây con, tạo nên sự đa dạng trong sản xuất và trong chuyển dịch cơ cấu sản xuất. Tuy nhiên, mùa mưa thường đi kèm với ngập lũ ảnh hưởng tới khoảng 50% diện tích toàn thành phố, mùa khô thường đi kèm với việc thiếu nước tưới, gây khó khăn cho sản xuất và sinh hoạt, nhất là khu vực bị ảnh hưởng của mặn, phèn làm tăng thêm tính thời vụ cũng như nhu cầu dùng nước không đều giữa các mùa của sản xuất nông nghiệp.
Sông Cần Thơ bắt nguồn từ khu vực nội đồng tây sông Hậu, đi qua các quận Ô môn, huyện Phong Điền, quận Cái Răng, quận Ninh Kiều và đổ ra sông Hậu tại bến Ninh Kiều. Sông Cần Thơ có nước ngọt quanh năm, vừa có tác dụng tưới nước trong mùa cạn, vừa có tác dụng tiêu úng trong mùa lũ và có ý nghĩa lớn về giao thông. Sông Cái Lớn dài 20 km, chiều rộng cửa sông 600 – 700 m, độ sâu 10 – 12 m nên có khả năng tiêu, thoát nước rất tốt.
Bên cạnh đó, thành phố Cần Thơ còn có hệ thống kênh rạch dày đặc, với hơn 158 sông, rạch lớn nhỏ là phụ lưu của 2 sông lớn là Sông Hậu và sông Cần Thơ đi qua thành phố nối thành mạng đường thủy. Các sông rạch lớn khác là sông Bình Thủy, sông Trà Nóc, sông Ô Môn, sông Thốt Nốt, kênh Thơm Rơm và nhiều kênh lớn khác tại các huyện ngoại thành là Thốt Nốt, Vĩnh Thạnh, Cờ Đỏ và Phong Điền, cho nước ngọt suốt hai mùa mưa nắng, tạo điều kiện cho nhà nông làm thủy lợi và cải tạo đất.
Nguồn gốc tên gọi
Khi đối chiếu địa danh Cần Thơ với tên Khmer nguyên thủy của vùng này là Prek Rusey (sông tre), không thấy có liên quan gì về ngữ âm, người nghiên cứu chưa thể vội vàng kết luận là Cần Thơ là một địa danh hoàn toàn Việt Nam và vội đi tìm hiểu căn cứ ở các nghĩa có thể hiểu được của hai chữ Hán Việt "cần" và "thơ". Cần Thơ không phải là từ Hán Việt và không có nghĩa. Nếu dò tìm trong hướng các địa danh Việt hoá, người nghiên cứu có thể thấy ngữ âm của Cần Thơ rất gần với ngữ âm của từ Khmer "kìntho", là một loại cá hãy còn khá phổ biến ở Cần Thơ, thông thường được gọi là cá sặc rằn, nhưng người ở Bến Tre vẫn gọi là cá "lò tho". Từ quan điểm vững chắc rằng "lò tho" là một danh từ được tạo thành bằng cách Việt hoá tiếng Khmer "kìntho",người nghiên cứu có thể sưu tầm các tài liệu về lịch sử dân tộc, về sinh hoạt của người Khmer xa xưa trong địa phương này, rồi đi đến kết luận là địa danh Cần Thơ xuất phát từ danh từ Khmer "kìntho".[cần dẫn nguồn]Về nguồn gốc chữ "Cần Thơ", có 2 thuyết. Thuyết thứ nhất kể rằng khi chúa Nguyễn Ánh trên đường bôn tẩu, thuyền ngài lênh đênh trên sông Hậu, trong đêm khuya thanh vắng ngài nghe có tiếng ngâm thơ, đờn địch, hò hát hòa nhau rất nhịp nhàng, từ một khúc sông xa vọng lại. Ngài xúc động và đặt tên con sông nhỏ này là "Cầm Thi Giang". Cầm Thi được đọc trại thành Cần Thơ. Một truyền thuyết khác nói là khi xưa vùng Cần Thơ có trồng nhiều rau cần và rau thơm. Mỗi khi chèo ghe đi bán trên sông rạch, chủ ghe thường rao: "Ai mua rau cần thơm không". Rau cần thơm vì vậy đã vào ca dao, và cần thơm đọc trại thành Cần Thơ:
-
-
- Rau cần rau thơm xanh mướt
- Mua mau kẻo hết, chậm bước không còn
- Rau cần lại với rau thơm
- Phải chăng đất ấy rau thơm có nhiều
-
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Sắc lệnh 143-NV được Tổng Thống Ngô Đình Diệm ban hành để "thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Trong đó, chính quyền đổi tên tỉnh Cần Thơ thành tỉnh Phong Dinh, tuy nhiên vẫn giữ lại tên gọi tỉnh lỵ là "Cần Thơ" như cũ. Dưới thời Việt Nam Cộng hòa, địa danh "Cần Thơ" chỉ còn được dùng để chỉ khu vực đô thị tỉnh lỵ của tỉnh Phong Dinh, tuy nhiên đến năm 1970 khu vực này và vùng phụ cận được nâng cấp trở thành thị xã Cần Thơ.
Nếu vào thời nhà Nguyễn độc lập, vùng đất Cần Thơ có tên là "Phong Phú" thì đến thời Việt Nam Cộng hòa, vùng đất này lại mang tên một địa danh mới lạ hoàn toàn và chưa bao giờ xuất hiện trước đó: "tỉnh Phong Dinh".
Lịch sử
-
Bài chi tiết: Lịch sử hành chính Cần Thơ
Thời phong kiến
Vào năm Mậu Tý 1708, ông Mạc Cửu dâng đất Hà Tiên cho chúa Nguyễn Phúc Chu. Vùng Cần Thơ lúc ấy vẫn chưa được tổ chức thành một đơn vị hành chánh của Hà Tiên.Sau khi Mạc Cửu mất vào năm Ất Mão 1735, Mạc Thiên Tứ nối nghiệp cha, khai phá thêm vùng hữu ngạn sông Hậu. Năm Kỷ Mùi 1739, Mạc Thiên Tứ thành lập thêm 4 vùng đất mới ở phía hữu ngạn sông Hậu để sáp nhập vào đất Hà Tiên: Long Xuyên (Cà Mau), Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang (Cần Thơ) và Trấn Di (Bắc Bạc Liêu).
Năm 1739, vùng đất Cần Thơ được khai mở và chính thức có mặt trên dư đồ Việt Nam với tên gọi là Trấn Giang, do Mạc Thiên Tích có công khai phá cùng thời với đất Cà Mau, Rạch Giá và Bắc Bạc Liêu. Sau đó cùng sáp nhập vào đất Hà Tiên. Mạc Thiên Tích đã sớm nhận thấy vị trí chiến lược của Trấn Giang - là hậu cứ vững chắc cho Hà Tiên trong việc chống lại quân Xiêm và quân Chân Lạp - nên đã tập trung xây dựng nơi đây thành Thủ sở với các thế mạnh cả về quân sự lẫn kinh tế và văn hoá.
Năm 1771, quân Xiêm tấn công Hà Tiên nhưng không chiếm được Trấn Giang. Năm 1774, nghĩa quân Tây Sơn kéo quân vào Nam đánh chiếm thành Gia Định, sau đó kéo xuống miền Tây và Trấn Giang. Sau trận Rạch Gầm -Xoài Mút (tháng 1 năm 1785), vào năm 1787 quân Tây Sơn rút khỏi các dinh trấn miền Tây, Trấn Giang trở lại dưới quyền bảo hộ của nhà Nguyễn. Suốt thập niên 70 của thế kỷ XVIII, Trấn Giang trở thành một cứ điểm quan trọng và phát triển mạnh trong bối cảnh lịch sử đầy xáo động.
Năm 1808, dưới triều vua Gia Long, đất Trấn Giang thuộc trấn Vĩnh Thanh (trước đó từng có tên là dinh Long Hồ, dinh Hoằng Trấn, Vĩnh Trấn), một trong 5 trấn của Gia Định bấy giờ là: Phiên An, Biên Hoà, Vĩnh Thanh, Định Tường và Hà Tiên. Năm Quý Dậu 1814 (năm Gia Long thứ 12), huyện Vĩnh Định được thành lập. Vùng Cần Thơ thuộc huyện Vĩnh Định (Nam sông Hậu), trấn Vĩnh Thanh (có 2 huyện: Vĩnh An và Vĩnh Định), phủ Định Viễn. Huyện Vĩnh Định có vị trí địa lý: Đông giáp biển, Tây giáp Cao Miên, Nam giáp Hà Tiên, Bắc giáp huyện Vĩnh An và huyện Bình Minh. Vào thời Gia Long, huyện Vĩnh Định chưa chia tổng. Tổ chức hành chánh của huyện được chia thành 37 thôn.
Năm 1832, dưới triều vua Minh Mạng, ngũ trấn được đổi thành lục tỉnh là Biên Hoà, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Đất Cần Thơ ngày nay (tức Trấn Giang ngày xưa) được lập thành huyện Vĩnh Định và cắt về phủ Tân Thành, tỉnh An Giang. Do có nhiều cuộc nội loạn ở vùng Nam Bộ, đặc biệt là cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi (1833-1835) nên thủ sở Trấn Giang vào thời Minh Mạng được tái thiết. Với tiềm năng kinh tế và vị trí địa lý của mình, thương mại Trấn Giang - Cần Thơ đã phát triển khá mạnh với chợ Sưu ở gần bến sông Cần Thơ, chợ Tân An liền hướng bến sông Bình Thủy và chợ Thới An Đông trên vùng gần cửa sông Ô Môn.
Voà năm Minh Mạng thứ 17 (Bính Thân 1836), địa bạ tỉnh An Giang (2 phủ, 4 huyện, 18 tổng, 161 thôn) được hoàn thành. Huyện Vĩnh Định có 4 tổng là Định An, Định Bảo, Định Khánh và Định Thới, phân cấp hành chánh cơ sở thành 30 thôn.
Năm 1839 (năm Minh Mạng thứ 20), huyện Vĩnh Định lại được đổi tên thành huyện Phong Phú, và cho huyện Phong Phú thuộc về phủ Tuy Biên (Châu Đốc), tỉnh An Giang. Huyện Phong Phú có 3 tổng và 31 thôn với huyện trị đặt tại thôn Tân An, ven bờ sông Cần Thơ.
Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là giai đoạn lịch sử có nhiều biến động dữ dội ở Nam Kỳ lục tỉnh. Thực dân Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường) theo hoà ước nhượng bộ của nhà Nguyễn vào năm 1862. Vào các ngày 20, 22 và 24 tháng 6 năm 1867, Pháp vi phạm hòa ước 1862, chiếm 3 tỉnh miền Tây là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.[11]
Thời Pháp thuộc
Ngày 1 tháng 1 năm 1868, Thống đốc Nam Kỳ là Bonard quyết định sáp nhập huyện Phong Phú với vùng Bãi Sào (Sóc Trăng) lập thành quận đặt dưới sự cai trị của người Pháp, lập Toà Bố tại Sa Đéc. Hạt Sa Đéc (phủ Tân Thành) đặt lỵ sở tại Sa Đéc gồm có 3 huyện: Vĩnh An, An Xuyên và Phong Phú.Huyện Phong Phú có địa giới hành chính Bắc giáp phủ Tân Thạnh và phủ Lạc Hóa, Tây - Bắc giáp huyện Tây Xuyên, Đông - Nam giáp huyện Vĩnh Định, phía Nam có nhiều rừng tràm và hổ báo. Huyện Phong Phú được phân cấp hành chính cơ sở gồm 8 tổng (3 tổng cũ, 5 tổng mới phía Nam sông Hậu). Vào thời điểm này ở huyện Phong Phú có 5 chợ chính là: Cần Thơ, Ô Môn, Bình Thủy, Trà Niềng và Cái Răng.
Ngày 30 tháng 4 năm 1872, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định sáp nhập huyện Phong Phú với vùng Bắc Tràng (thuộc phủ Lạc Hóa, tỉnh Vĩnh Long trước đây) để lập thành một hạt, đặt Toà Bố tại Trà Ôn. Một năm sau, Toà Bố từ Trà Ôn lại dời về Cái Răng.
Ngày 23 tháng 2 năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định mới lấy huyện Phong Phú và một phần huyện An Xuyên và Tân Thành để lập hạt Cần Thơ với thủ phủ là Cần Thơ. Hạt Cần Thơ thuộc khu vực Bassac (Hậu Giang). Hạt Cần Thơ chia làm 11 tổng, 119 làng, dân số 53.910 người.
Năm 1899, Pháp đổi các đơn vị hành chính cấp hạt thành tỉnh và huyện đổi thành quận. Tỉnh Cần Thơ được thành lập theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương trên cơ sở đổi tên gọi tiểu khu hay hạt tham biện (arrondissement) thành tỉnh (province), kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1900. Như vậy, tỉnh Cần Thơ là một trong 20 tỉnh ở Nam Kỳ lúc bấy giờ.
Năm 1917 tỉnh Cần Thơ có diện tích 2.191 km², gồm 4 quận: Châu Thành, Phụng Hiệp, Ô Môn, Cầu Kè. Năm 1921 có thêm quận Trà Ôn. Tỉnh lỵ tỉnh Cần Thơ đặt tại làng Tân An thuộc quận Châu Thành.
Năm 1928, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập các thành phố Bạc Liêu, Cần Thơ, Rạch Giá và Mỹ Tho có Ủy ban thành phố, thị trưởng do chủ tỉnh bổ nhiệm và có ngân sách riêng. Tuy nhiên sau này vẫn thường gọi là thị xã Cần Thơ.
Nghị định ngày 30 tháng 11 năm 1934 sắp xếp đất đai thị xã Cần Thơ thành 5 vùng và 1 vùng ngoại ô để thu thuế thổ trạch.
Từ năm 1876 đến năm 1954, địa giới hành chính tỉnh Cần Thơ dưới quyền kiểm soát của chính quyền Pháp không có sự thay đổi. Tuy nhiên, trong thời gian chiến tranh Đông Dương, chính quyền kháng chiến của Việt Minh có điều chỉnh một phần địa giới hành chính của tỉnh Cần Thơ. Năm 1947, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập thị xã Cần Thơ thuộc tỉnh Cần Thơ. Trong 2 năm 1948 và 1949, tỉnh Cần Thơ nhận thêm huyện Thốt Nốt từ tỉnh Long Xuyên, nhận các huyện Long Mỹ, Gò Quao, Giồng Riềng, thị xã Rạch Giá từ tỉnh Rạch Giá vừa bị giải thể và nhận huyện Kế Sách từ tỉnh Sóc Trăng. Đồng thời, tỉnh Cần Thơ giao 2 huyện Trà Ôn và Cầu Kè về tỉnh Vĩnh Trà (gồm hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh ngày nay).
Giai đoạn 1956-1976
Việt Nam Cộng hòa
Dân số Cần Thơ[12] | |
---|---|
Năm | Dân số |
1954 | 42.000 |
1958 | 50.790 |
1965 | 77.690 |
1970 | 109.483 |
1972 | 170.931 |
1975 | 190.242 |
Ngày 28 tháng 8 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành Dụ số 50 về việc bãi bỏ quy chế thị xã. Theo quyết định này, bãi bỏ Dụ số 13 ban hành ngày 30 tháng 5 năm 1954 về quy chế thị xã. Những thị xã hiện đặt dưởi quy chế trên, từ nay sẽ theo chế độ thôn xã, và được quản tri bởi một ủy ban hành chính do tỉnh trường bồ nhiệm. Theo đó, tiến hành giải thể thị xã Cần Thơ vốn được lập nên trước đó, đồng thời địa bàn thị xã được chuyển thành xã Tân An trực thuộc tổng Định An, quận Châu Thành, tỉnh Cần Thơ.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh 143-NV để "thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Việt Nam Cộng hòa gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Phong Dinh được thành lập do đổi tên từ tỉnh Cần Thơ. Tỉnh lỵ tỉnh Phong Dinh đặt tại Cần Thơ và vẫn giữ nguyên tên là "Cần Thơ", về mặt hành chánh thuộc xã Tân An, quận Châu Thành.
Năm 1957, tỉnh Phong Dinh có 5 quận: Châu Thành, Phụng Hiệp, Ô Môn, Long Mỹ và Kế Sách. Ngày 23 tháng 2 năm 1957, tỉnh Phong Dinh nhận quận Kế Sách từ tỉnh Ba Xuyên (tức tỉnh Sóc Trăng trước đó) quản lý. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau vào ngày 16 tháng 9 năm 1958, tỉnh Phong Dinh giao lại quận Kế Sách cho tỉnh Ba Xuyên.
Ngày 16 tháng 09 năm 1958, quận Ô Môn đổi tên là quận Phong Phú. Ngày 18 tháng 3 năm 1960 tỉnh Phong Dinh lập thêm quận Đức Long trên cơ sở tách đất từ quận Long Mỹ. Ngày 24 tháng 12 năm 1961, hai quận Đức Long và Long Mỹ được bàn giao cho tỉnh Chương Thiện mới thành lập.
Ngày 2 tháng 7 năm 1962 tỉnh Phong Dinh lập thêm 2 quận Khắc Trung và Khắc Nhơn. Ngày 20 tháng 4 năm 1964, đổi tên 2 quận Khắc Trung và Khắc Nhơn thành Thuận Trung và Thuận Nhơn. Ngày 26 tháng 5 năm 1966 lập thêm quận Phong Điền. Ngày 23 tháng 4 năm 1968, lại lập thêm quận Phong Thuận.
Ngày 30 tháng 9 năm 1970, Thủ tướng chính quyền Việt Nam Cộng hòa Trần Thiện Khiêm ban hành Sắc lệnh số 115-SL/NV cải biến xã Tân An và các phần đất phụ cận (bao gồm xã Thuận Đức, ấp Lợi Nguyên thuộc xã An Bình và ấp Bình Nhựt thuộc xã Long Tuyền) thuộc quận Châu Thành, tỉnh Phong Dinh thành "thị xã Cần Thơ", là thị xã tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương Việt Nam Cộng hòa, đồng thời kiêm tỉnh lỵ tỉnh Phong Dinh. Thị xã Cần Thơ là nơi đặt Bộ tư lệnh Quân khu IV của quân đội Việt Nam Cộng hòa trong cuộc chiến.
Ngày 7 tháng 6 năm 1971, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 585-NĐ/NV thành lập tại thị xã Cần Thơ 2 quận lấy tên là quận 1 (quận Nhứt) và quận 2 (quận Nhì). Địa phận của 2 quận này được phân chia thành 8 khu phố trực thuộc như sau:
- Quận 1 (quận Nhứt) gồm năm khu phố: An Lạc, An Cư, An Nghiệp, An Hòa, An Thới.
- Quận 2 (quận Nhì) gồm ba khu phố: Hưng Lợi, Hưng Phú, Hưng Thạnh.
Từ đó cho đến năm 1975, thị xã Cần Thơ và tỉnh Phong Dinh là hai đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau theo sự phân chia sắp xếp hành chính của Việt Nam Cộng hòa. Tỉnh Phong Dinh gồm 7 quận: Châu Thành, Phụng Hiệp, Phong Phú, Thuận Nhơn, Thuận Trung, Phong Điền, Phong Thuận.
Subscribe to:
Posts (Atom)