Bải Đã Đăng

1

Wednesday, February 7, 2018

Lời Cô Gái Bán Chim Trên Bến Phà Mỹ Thuận ...


Lời Cô Gái Bán Chim Trên Bến Phà Mỹ Thuận ...

Nhớ khi xưa mỗi lần sang Mỹ Thuận
Khi chiếc cầu chưa được bắc qua sông
Nhìn phà đưa từng chiếc rẽ xuôi giòng
Khách bộ hành trên xe ngồi ngóng đợi

Những cô gái bán rong ùa nhau tới
Chạy lăng xăng miệng đon đã chào mời
Đây nhãn lòng nọ trái ổi xanh tươi
Chai nước ngọt chùm chôm chôm mới chín

Gái miền quê sao mà da trắng mịn
Áo bà ba mái tóc thả mượt mà
Có một lần ngồi đợi chuyến đò qua
Một cô gái bán chim chào đon đã

Mời anh mua giùm chim em đi ạ !
Chim em tơ lông mới mọc vừa đầy
Mập vun tròn anh cầm thử trên tay
Chim của em anh xem là chim mới

Đồng mùa nầy lúa cũng vừa chín tới
Nên chim em toàn thịt chẳng ốm xương
Anh cầm đi sờ thử mới tỏ tường
Em không gạt anh đâu mà e ngại

Nghe em mời với những lời vụng dại
Muốn quay đi che mặt giấu nụ cười
Nhưng sợ em hiểu được lại hổ ngươi
Đành móc túi mua giùm chim em bán

Dân gái quê ngày xưa còn trong sáng
Vẫn vô tư trong lời lẽ chào mời
Chưa biết nhiều chau chuốt ở đầu môi
Em ngày ấy chắc giờ thành Bà Ngoại

Không biết em có khi nào ngồi nhớ lại
Những lời mời thời cô gái bán chim
Nếu có nhớ chắc em cười tủm tỉm
Ông khách nào chắc dại giống như em ....


Huyền Lâm ....Ngồi nhớ vu vơ của mấy mươi năm về trước mỗi khi về phép qua chuyến phà Mỹ Thuận mà 1 lần được cô gái bán chim mời mua ....chuyện thật 100% giờ nhớ lại kể nhưng đã quên ít nhiều ..


Bài thơ về các cô gái bán chim thời đó:
Đi qua bắc Mỹ Thuận
Nhộn nhịp khách lữ hành
Cô em mời đon đả
“Ăn chim em đi anh”
Nè, chim em mập lắm
Nè chim em ít lông
Chim em vừa mới lớn
Anh, ăn chim em không?
Chim em toàn những nạc
Chim em chẳng có xương
Anh sờ đi: toàn thịt
Lại to hơn chim thường….
“Ừ, chim em bự lắm
Nhưng anh cũng… có rồi
Anh dừng lại xem thôi
Để anh đi, em nhé “
Xe chuyển bánh nhè nhẹ
Cô em còn ghé theo
Chim em, chim rất nhiều
Lần sau anh mua nhé
Nay qua sông Mỹ Thuận
Gặp cây cầu ước mơ
Thương cô em mười tám
Biết tìm đâu bây giờ?…

ST



Monday, October 23, 2017

LỤC TỈNH

6 tỉnh miền Tây khiến du khách tới là yêu
Sau chuyến đi qua 6 tỉnh miền Tây, vùng đất dễ thương dễ nhớ này khiến hành trình của chúng tôi thật nhiều kỷ niệm, với thiên nhiên thơ mộng và lòng người hiền hòa.
Đi miền Tây, bạn không cần quá nhiều tiền, không sợ lạc đường, không lo bị chém giá, vì trên cung đường đơn giản bạn có thể đi từ tỉnh này qua tỉnh khác, và người dân cực kỳ thân thiện.

1 - Cần Thơ nổi tiếng với chợ nổi Cái Răng. Ở đây nhộn nhịp du khách nước ngoài. Bạn có thể thuê một xuồng dành cho 2 người giá 300.000 đồng hoặc một nhóm người đi chung để được chở đi dạo chơi, thăm thú chợ nổi buổi sớm mai. Chợ nổi được coi là đặc sản của Cần Thơ với khách du lịch tới đây tham quan. Khoảng 5-6h30 là khoảng thời gian đẹp nhất để tham quan chợ nổi. Bạn có thể đứng trên xuồng để gọi mua hàng. Các thuyền sẽ được neo vào nhau đến khi trao đổi hàng hóa xong.

2 - Hậu Giang với những mảng nước đóng rêu xanh ngát, bên những hàng cây mọc cao bao quanh. Ở đây, tôi cảm giác như lạc vào một miền cổ tích màu xanh tràn đầy nhựa sống.Hoàng hôn trên cầu Mỹ Thuận, khi tôi trên đường đến thành phố Vĩnh Long. Ngắm hoàng hôn ở trên những chiếc cầu cao miền sông nước mà một thú vui bạn nên trải qua khi về với miền Tây.

3 - Vĩnh Long, bạn có thể ngồi trò chuyện cùng nhau bên bờ kè dọc sông Tiền, giữa gió mây, sông nước mênh mông, mát rượi. Ở đây còn có du thuyền nhỏ dành cho khách muốn vừa uống cà phê vừa dạo chơi trên sông. Khoảng cách từ trung tâm thành phố Vĩnh Long tới Cần Thơ khoảng hơn 30 km. Thời gian đẹp nhất là đi vào sáng sớm, để thấy trăng soi bóng nước, và kịp đi chợ nổi Cần Thơ lúc nhộn nhịp nhất.

4 - “Cà Mau xa lắm, ở tận cùng bản đồ Việt Nam”, đến khi đi mới thấy câu đó hoàn toàn chính xác. Đường đến Mũi Cà Mau xa tít, nhưng bù lại rất nên thơ. Đến đây bạn sẽ được trải nghiệm những cảm giác rất thú vị và hết sức lạ lùng.
Bạn sẽ được đi bộ một vòng vành đai ở đất mũi, tận cuối là rừng tràm xanh ngát. Đến đây, đừng bỏ lỡ việc ngắm hoàng hôn và ở homestay “xịn”

5 - Kiên Giang, bạn nên đi đường Xuyên Á. Đây là con đường mới, khá vắng và cảnh quan thoáng mát, đẹp. Lúc hoàng hôn xuống, đi đường này, nghe cùng một bản nhạc thì quá tuyệt vời Đến Kiên Giang, đừng quên ăn bún cá, uống nước gấc đặc sản Ban đêm, hãy uống cà phê lề đường ở Lạ Hồng quán, ban ngày ra Bến Du Thuyền cà phê. Đây là nơi có view đẹp như Tây, dành cho các bạn mê chụp hình.

6 - Đồng Tháp, đừng quên ăn hủ tiếc Sa Đéc và đi làng hoa Sa Đéc, để sống trong sự nhiệt tình mến khách của người miền Tây Kết thúc chuyến hành trình 6 ngày với các tỉnh miền Tây, chúng tôi đã trải qua nhiều cảm giác rất thú vị. Cảnh vật đôi khi lặp lại, nhưng mỗi nơi, mỗi tỉnh đều cho những cảm nhận riêng
( Theo Thủy Phan Zing.vn ) 

Tuesday, September 26, 2017

Vũng Tàu hình ảnh 50 năm về trước

Kính tặng mọi người bộ ảnh đẹp Vũng Tàu cách đây hơn 50 năm trước, xem lại những hình ảnh này bạn sẽ thấy lại những cảnh vật rất quen thuộc của chúng ta ngày nào cũng như qua những hình ảnh không biết bây giờ ai còn ai mất đúng không quý vị ,mới đây mà đã đã thấm thoát hơn 50 năm rồi ,ai ai trong chúng ta cũng đã trải qua nữa đời người rồi còn đâu ,một chặng đường không dài cũng không ngắn, nhưng cũng đủ cho những con người sinh ra lớn lên trên mảnh đất này, hay những người đã từng sinh sống ở nơi đây, phải ngạc nhiên thốt lên rằng “ không ngờ”…,với cái “ tuổi thiếu niên” ấy, nếu ai từng đến nơi đây hơn 50 năm trước và nay quay lại, chắc gì đã nhận ra Bà Rịa - Vũng Tàu hôm nay, đúng không quý vị, còn đối với giới trẻ ngày nay thì sao ,nhìn thì không có gì hết ,thế nào cũng nói là nhìn bình thường thôi ,nhưng đối với những người Sài Gòn thì các tấm ảnh này đổi vói họ là những kỷ niệm tràn về ...
==>
Vũng Tàu là một thành phố ven biển, một địa điểm du lịch nổi tiếng của Việt Nam. Thành phố biển này thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ở vùng Đông Nam Bộ Việt Nam, vũng Tàu giáp Bà Rịa và huyện Long Điền, nằm trên bán đảo cùng tên và có cả đảo Long Sơn, cáchSài Gòn 125 km về phía Đông Nam theo đường bộ và 80 km theo đường chim bay. Nếu nhìn theo chiều Bắc Nam, Vũng Tàu nằm ở khúc quanh đang đổi hướng từ Nam sang Tây của phần dưới chữ S (bản đồ Việt Nam) và nhô hẳn ra khỏi đất liền như một dải đất có chiều dài khoảng 14 km và chiều rộng khoảng 6 km. Đây là nơi người ta có thể ngắm nhìn biển Đông cả khi mặt trời mọc lẫn lúc hoàng hôn.

Vũng Tàu có núi Lớn (núi Tương Kỳ) cao 245 m và núi Nhỏ (núi Tao Phùng) cao 170 m. Trên núi Nhỏ có ngọn hải đăng cao 18 m, chiếu xa tới 30 hải lý, Trước kia vùng đất này là bãi lầy, nơi thuyền buôn nước ngoài thường vào trú đậu nên gọi là Vũng Tàu. Các nhà hàng hải Bồ Đào Nha khi đi qua mũi đất này đã lấy tên Thánh Giắc đặt cho nó, do đó người Pháp gọi nơi này là Cap Saint Jacques (do mũi đất mang tên thánh Jacques),
Người Việt theo đó gọi là Cấp (gốc tiếng Pháp: Cap) hoặc Ô Cấp (gốc tiếng Pháp: au Cap). Hiện nay mũi đất cực đông của Vũng Tàu có tên gọi là "mũi Nghinh Phong", Vũng Tàu cũng từng có tên là Tam Thoàn hay Tam Thắng để ghi lại sự kiện thành lập ba làng đầu tiên ở đây: Thắng Nhất, Thắng Nhị, Thắng Tam. Chữ Tam Thắng là biến âm của Tam Thoàn, tức Ba Thuyền ...,theo sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức thì "Thuyền Úc", tục danh Vũng Tàu... phía bắc ôm cửa Tắc Khái (cửa sông Dinh), phía nam đỡ núi Thát Sơn để che cửa Cần Giờ ,Mặt vụng trông về hướng tây, rộng lớn mông mênh để thu nạp các dòng nước sông đầm chảy về biển mà làm nơi êm đềm cho thuyền bè ẩn đậu.", Vũng Tàu từng thuộc trấn, sau là tỉnh Biên Hòa thời nhà Nguyễn. Thời vua Gia Long (1761-1820), khi nạn hải tặc Mã Lai hoành hành tại vùng biển này là mối đe dọa cho các thương nhân vùng Gia Định, vua đã gửi ba đội quân đến dẹp loạn và cho phép ba tướng cầm đầu cùng quân lính ở lại mở đất.

Theo sắc của vua Minh Mạng năm 1822, chính 3 ông đội Phạm Văn Dinh, Lê Văn Lộc, Ngô Văn Huyền thuộc ba đội binh (Tam Thoàn) đã thành lập ba làng đầu tiên: Thắng Nhất, Thắng Nhị, Thắng Tam, Ngày 10 tháng 2 năm 1859 tức mồng 8 Tết Kỷ Mùi, quan quân nhà Nguyễn đã khai hỏa lần đầu tiên những khẩu súng thần công đặt ở pháo đài Phước Thắng, cao 30 m và cách bờ biển Bãi Trước gần 100 m, bắn vào đoàn chiến thuyền của liên quân Pháp-Tây Ban Nha do tướng Rigault de Genouilly chỉ huy trên đường vào xâm lược Nam Kỳ, mở đầu cuộc kháng chiến chống quân Pháp ở Nam Kỳ. Trong trận này Thống chế Trần Đồng, Tổng chỉ huy lực lượng thủy lục quân nhà Nguyễn đã hy sinh ,Năm 1876 Vũng Tàu thuộc tiểu khu Bà Rịa, nằm trong khu vực (circonscription) Sài Gòn, theo nghị định phân chia hành chính của thực dân Pháp, ngày 1 tháng 5 năm 1895 Thống đốc Nam Kỳ ra nghị định tách thị xã Cap Saint Jacques ra khỏi tiểu khu Bà Rịa để lập thành phố tự trị (commune autonome) Cap Saint Jacques, đến ngày 20 tháng 1 năm 1898, Cap Saint Jacques hợp nhất trở lại với tiểu khu Bà Rịa thành khu Cap Saint Jacques cho đến năm 1899 lại tách ra thành hai đơn vị hành chính độc lập. Ngày 14 tháng 1 năm 1899 khu Cap Saint Jacques thành lập tổng Vũng Tàu gồm 7 xã.
Năm 1901, dân số Vũng Tàu là 5.690 người, trong đó có gần 2.000 người di cư từ miền Bắc vào, sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt thủy hải sản, ngày 1 tháng 4 năm 1905 theo nghị định của Toàn quyền Đông Dương, Cap Saint Jacques không còn là thành phố tự trị và trở thành đại lý hành chính thuộc tỉnh Bà Rịa ,năm 1929 Cap Saint Jacques trở thành tỉnh riêng, rồi đến năm 1934 tỉnh Cap Saint Jacques lại hạ cấp xuống thành thành phố (commune) , hiện tại, Vũng Tàu có diện tích 140,1 km² gồm 16 phường và 1 xã với dân số khoảng 310 000 người(năm 2010).
Vũng Tàu có nhiều bãi biển đẹp như bãi Sau (Thùy Vân), bãi Trước (Tầm Dương), bãi Dứa (Hương Phong), bãi Dâu (Phương Thảo) cùng bãi tắm Long Hải , ngoài ra có nhiều nơi tham quan như chùa Thích Ca Phật Đài, tượng Chúa Kitô Vua, Bạch Dinh, Núi Nhỏ, Núi Lớn.

ST Facebook









































 

Friday, September 15, 2017

Bát Bún Riêu

Từ Eau Claire, theo đường liên tỉnh 53 ngược lên mạn Bắc, đến Solon Spring thì rẽ phải theo hương lộ P nhỏ hẹp ngoằn ngoèo len mình giữa khu rừng phong ngút ngàn trùng điệp. Tiếp tục thêm vài dậm, vòng qua những lưng đồi thoai thoải dốc là tới thung lũng Nebagamon cạnh đặc khu Lac Court Oreilles của người Da Đỏ.
Trời vào Thu, rừng phong đã thay chiếc áo choàng màu hồng lựu!
Hơn nửa giờ xe, không một bóng người! Ngoài tiếng gió thở dài, tiếng lá khô xào xạc, tiếng rừng cây trăn trở, không còn một âm thanh nào khác. Tôi cảm tưởng như lạc vào một hành tinh xa lạ không sinh vật.
Đồi lại đồi liên liên tiếp nối tay nhau...
Sau cùng, tới Nebagamon. Nơi đây có viện Dưỡng Lão Lakeview mà theo lịch trình mỗi năm tôi phải đến một lần để thanh tra y vụ.
Lần đầu tiên đến đây nên tôi không khỏi ngỡ ngàng. Tưởng dù hẻo lánh đến đâu ít ra cũng có xóm làng, một giáo đường nho nhỏ hay vài ngôi nhà be bé xinh xinh, nhưng tuyệt đối “không”. Ngoài rừng phong đổ lá chỉ có hồ nước trong veo xanh ngắt màu trời!
“Trung Tâm An Dưỡng Lakeview”, như tên gọi, ẩn mình dưới tàng cây sồi rợp bóng trên khu đất rộng, quay lưng vô rừng thông, nhìn ra mặt hồ phẳng lặng như gương.
Tôi ngẫm nghĩ:
-Nơi nầy có thể là điểm nghỉ ngơi lý tưởng cho những người quanh năm lao lực hoặc những ai muốn tìm sự quên lảng. Còn chọn làm viện dưỡng lão thì...” hơi tàn nhẫn “!
Tuổi già vốn đã cô đơn mà nơi đây lại hầu như cách biệt với thế giới bên ngoài. Trừ y tá y công và vài chuyên viên dịch vụ thì chẳng còn ai khác. Người nào cũng bận bù đầu rảnh rỗi đâu mà tán gẩu với người già? Nhất là sau buỗi cơm chiều khi hoàng hôn buông xuống, ai nấy đều về nhà thì bóng đêm chắc sẽ thật dài....
Vừa đẩy cửa bước vào tôi đã giật mình vì gặp một hàng 6 chiếc xe lăn đang “giàn chào”. Trên mỗi xe là một lão ông hoặc lão bà độ bảy tám mươi, mái tóc bạc phơ, mắt hom hem sau làn mục kỉnh. Có người trông còn sáng suốt, người thì như xác không hồn. Họ chăm chú nhìn tôi từø đầu đến chân như quan sát một quái nhân đến từ hành tinh xa lạ.
Có lẽ vì tôi là người Á Châu duy nhứt tới đây chăng?
Cô y tá hướng dẫn như đoán được cảm nghĩ của tôi, bèn nhoẻn cười:
-Ông ngạc nhiên hả?
Tôi ngập ngừng:
-Chắc họ biết hôm nay tôi đến nên hiếu kỳ muốn trông thấy mặt?
Cô ta khẻ lắc đầu:
-Mỗi ngày đều như vậy. Sáng nào họ cũng ngồi đó để mong chờ...
-Chờ thân nhân tới đón?
-Không!
-Hay bè bạn đến thăm?
Cô y tá phì cười, pha trò:
-Ông nghĩ...già ngần ấy tuổi mà còn ham bạn gái sao?
-Ý tôi là bạn thông thường.
-Nếu những người bạn ấy chưa nằm xuống thì cũng đang ngồi xe lăn như họ tại một viện dưỡng lão nào đó.
Rồi ngậm ngùi:
-Họ mong chờ những hình bóng không bao giờ đến, xa xôi trong hồi ức....
Và khẻ thở dài:
-Tôi làm việc ở đây hơn mười năm, đã chứng kiến nhiều hoạt cảnh. Tháng nào cũng có người mới tới và cũng có người vĩnh viễn ra đi.
-Chắc ít nhiều lòng cô cũng phần nào xao xuyến?
-Thật tình mà nói. Lúc đầu thì có, nhưng giờ đã quen rồi.
-Cô rất mãnh cảm!
-Là do luyện tập thôi, bằng không sẽ ngã quị.
Chúng tôi vào thang máy lên tầng trên. Một cụ già chống gậy tập tễnh vô theo.
Cô y tá nhìn ông ta và hỏi:
-Ông đi lên hay đi xuống?
Cụ đáp như cái máy, giọng nói khò khè yếu ớt khó nghe:
-Đi xuống... đi lên...đi xuống....đi lên.
Tôi nhận thấy ông ta chẳng nhìn ai cả, ánh mắt không hồn đăm đăm hướng về phương trời vô định.
Dường như quá quen thuộc với những hiện tượng nầy, cô y tá thản nhiên nói:
-Vậy mời ông bước ra chờ, chuyến sau sẽ có người cùng đi với. Chúng tôi đang bận.
Cô bèn nắm tay dẫn ông cụ ra ngoài rồi lạnh lùng khép cửa.
Tôi thắc mắc:
-Nếu ông ấy lại tiếp tục bấm nút thang máy thì sao?
-Chúng tôi đã lượng trước điều ấy nên tất cả nút các điện trong viện đều gắn rất cao, người già không với tới.
-Thì ra vậy!
Công tác xong, trời cũng về chiều. Tôi từ giã. Cô y tá tiễn tôi ra cửa.
Đoàn xe lăn vẫn còn “giàn chào”.
Chợt trông thấy trong góc tối, một ông lão độ trên dưới tám mươi đang cô đơn ngồi bất động trên xe lăn như pho tượng cũ. Điểm khác biệt khiến tôi chú ý là ông ta không phải người da trắng và cũng không hòa nhập vào toán “dàn chào”.
Da ông màu đồng nâu có nhiều vết nhăn đậm nét thời gian hằn trên mặt. Mái tóc bạc phơ rủ lòa xòa trên trán.Vóc người bé nhỏ, mắt hom hem trân trối nhìn tôi như muốn nói điều gì. Tôi đoán chừng ông là thổ dân Da Đỏ.
Hiếu kỳ, tôi hỏi cô y tá:
-Viện dưỡng lão nầy cũng nhận người Indian sao? Tôi nghỉ là trách nhiệm của chính phủ Liên Bang chứ?
Cô ta ngạc nhiên:
-Sao ông hỏi vậy?
Tôi trỏ ông lão ngồi xe lăn:
-Không phải Indian là gì?
Cô y tá phì cười:
-Ông ta người Á Đông đó.
Tôi giật mình:
-Người Á Đông?
- Phải. Dường như là Việt Nam.
Thêm một kinh ngạc. Tôi không ngờ nơi vùng đất hẻo lánh đìu hiu lạnh lẽo nầy cũng có người Việt định cư. Tôi bèn hỏi dồn.
-Sao cô biết ông ta người Việt?
-Hồ sơ có ghi rõ.
-Ông ấy vào đây lâu chưa?
-Hơn mười năm.
Cô khẻ lắc đầu:
-Tội nghiệp! Ông ta rất hiền lành dễ thương, ai cũng mến, nhưng hiềm chẳng nói được tiếng Anh nên suốt ngày thui thủi một mình, không có bạn.
-Thân nhân ông ấy có thường xuyên tới thăm không?
-Một lần, cách nay lâu lắm.
..
Lòng se lại. Hẳn có uẩn khúc gì đây? Không thể cam tâm quay mặt làm ngơ trước người đồng hương đang gặp cảnh bẽ bàng nơi đất khách, tôi tự giới thiệu:
-Tôi cũng là người Việt....
Cô ta trố mắt:
-Thế mà tôi đinh ninh ông là người Trung Hoa.
Tôi cười:
-Trong mắt người Tây phương, bất cứ ai da vàng cũng là Tàu.
Cô pha trò:
-Cũng đâu phải lạ. Hiệu ăn Tàu nhan nhãn khắp nơi, ngay trong xóm Da Đỏ hẻo lánh tít mù trên mạn Bắc cũng có. Lần nào qua đó tôi cũng ghé mua cơm chiên, chả giò, vừa ngon vừa rẻ, nhưng phải tội là...
Tôi nhoẻn cười:
-Mỡ dầu và bột ngọt hơi nhiều!
Cô ta cũng cười xòa:
-Phải nói là nhiều quá mới đúng. Khổ công tập thể dục cả tháng, ăn một bữa cơm Tàu là đâu vào đấy, có khi “thặng dư “ .
Tôi quay lại vấn đề:
-Tôi muốn tiếp xúc với ông lão người Việt để chào hỏi làm quen. Có thể ông ấy cũng đang cần người nói chuyện vì lâu lắm chưa có dịp.
Cô y tá mừng rỡ:
-Hay lắm, đó cũng là điều chúng tôi mong muốn. Vùng nầy hẻo quá lánh không thể tìm ra người thông dịch. Nhân tiện nhờ ông hỏi xem ông ấy có nhu cầu hay đề nghị gì hầu chúng tôi đáp ứng.
-Vâng, tôi sẽ cố gắng.
Thấy tôi đi tới, ông lão ngước lên nhướng đôi mắt hom hem nhìn chòng chọc, vừa ngạc nhiên vừa thoáng chút ngại ngùng.
Tôi gật đầu chào:
-Chào cụ.
Nét mặt rạng niềm vui, giọng nói run run vì xúc động:
-Dạ...chào thầy. Thầy là...người Việt?
Giọng ông hơi nặng và chân thật. Tôi thân mật nắm tay ông:
-Thưa cụ, cháu cũng là người Việt như cụ!
Ông lão nghẹn ngào:
-Cảm ơn Thiên Chúa, cảm ơn Đức Mẹ từ bi đã cho tui gặp ông.
Tôi kéo ghế ngồi bên cạnh và bắt đầu trò chuyện.
-Thưa cụ. Vì sao cụ cho là cuộc gặp gỡ hôm nay do Thiên Chúa và Đức mẹ sắp đặt?
-Đêm nào tui cũng cầu nguyện ơn trên cho tui gặp người đồng hương...
-Có chuyện khẩn cấp gì không, thưa cụ?
-Để được nói chuyện bằng tiếng Việt thôi.
Cụ thở dài:
-Lâu lắm rồi...tui chưa được nói hay nghe tiếng mẹ đẻ.
Nhối trong tim. Tôi bùi ngùi thương cảm. Một ước mơ đơn giản quá mà sao quá xa vời. Chúng tôi bắt đầu trò chuyện. Ông kể:
-Tên tui là Tỉnh, Nguyễn văn Tỉnh... Trước kia ở Bình Tuy, làm nghề biển, có thuyền đánh cá, tuy không giàu nhưng cuộc sống cũng sung túc. Có vợ, ba con trai, đứa lớn nhứt nếu còn sống thì giờ đã gần 50. Năm 75 cộng sản tràn vào, cả nước kéo nhau chạy nạn. Sẳn phương tiện trong tay, tui bèn chở vợ con vượt thoát. Nhưng chẳng may sau ba ngày lênh đênh trên mặt biển thì gặp bão lớn, tàu chìm. Tui và đứa con út lên sáu may mắn được tàu Mỹ vớt còn vợ và hai đứa lớn thì mất tích.
Sau đó tui được bảo trợ về Louisiana. Nơi đây có đông người đồng hương nên cũng đỡ buồn. Tui bắt đầu tái tạo sự nghiệp, hùn hạp với bạn bè mua tàu đánh cá làm việc ngày đêm, trước để vơi buồn, sau là tạo dựng tương lai cho thằng Út, giọt máu cuối cùng còn sót lại.
Tui ước mong thằng bé sẽ theo cha học nghề biển, nhưng nó không muốn. Nó chỉ thích làm bác sĩ kỷ sư ngồi nhà mát chớ không chịu giải nắng dầm mưa như bố. Thế nên vừa xong Trung Học là nó quyết chọn trường xa để tiếp tục Đại Học.
Ông ngừng lại một chút dễ dằn cơn xúc động rồi ngậm ngùi kể tiếp:
-Tui chỉ còn một mình nó. Không thể sống xa con nên quyết định bán hết tài sản để dọn theo. Bạn bè ai cũng ngăn cản, nhưng tui quyết giữ lập trường, mang hết tiền dành dụm đến Tiểu Bang nầy mua một căn nhà nhỏ ở ngoại ô, còn lại chút ít thì gửi vào quỉ tiết kiệm lấy lời sống qua ngày. Hai cha con đùm bọc nhau, cuộc sống tuy chẳng sung túc nhưng cũng nhẹ nhàng.
Tuổi ngày một già sức khỏe càng yếu. Năm ấy trời làm mưa đá, tui bị ngã gãy chân. Bác sĩ cho biết xương già không lành được, phải vĩnh viễn phải ngồi xe lăn.
Thằng Út ra trường, có việc làm tốt ở Nữu Ước. Tự biết khó thể theo con và không muốn làm trở ngại bước tiến thân của nó, tui muốn xin vào viện dưỡng lão. Tôi lên tiếng trước cho nó khỏi bị khó xử. Nó giúp tui làm thủ tục và hứa khi việc làm yên ổn sẽ đón tui về.
Các viện dưỡng lão tương đối khá đều hết chỗ. May thay đang lúc bối rối, thì có anh bạn học người Da Đỏ mách cho nơi nầy. Thấy con buồn tui bèn an ủi nó: “Nơi nào cũng là quê người, giống nhau thôi. Thỉnh thoảng con về thăm là bố vui rồi”.
Thế là cả ngôi nhà lẩn tiền dành dụm đều phải trao hết cho viện dưỡng lão. Dĩ nhiên là tui được nhận.
Ánh mắt xa xôi nhìn về phía chân trời đang có đàn chim chiều đang xoải cánh, ông chép miệng:
-Nhanh quá....Mới đó đã mười năm.
-Thưa cụ, thời gian qua chắc anh Út cũng thường về thăm cụ?
-Một năm sau nó có trở lại, khoe với tui hình cô gái Mỹ và nói là “dâu tương lai của bố đấy”. Rồi....từ đó biệt tăm luôn.
-Cụ hoàn toàn không biết tin tức gì về anh ấy?
-Không, mà thật tình... tui cũng không muốn biết.
-Tại sao? Anh ấy là con trai duy nhứt của cụ mà? Cháu sẽ giúp cụ tìm anh ấy.
Ông lão rớm nước mắt:
-Tui sợ lắm... Thà biền biệt như thế mà tui vẫn tin tưởng là nó đang sống tốt với vợ con ở nơi nào đó trên quả đất, còn hơn là biết tin buồn. Quả tình, tui không kham nổi.
Tôi nghẹn lời không nói được. Chập sau, qua cơn xúc động, tôi hỏi:
-Giờ đây cụ có ước nguyện gì xin cho biết, cháu sẽ hết lòng giúp với tất cả khả năng mình.
Ông lão thở dài:
-Già rồi, còn được mấy năm trước mặt?
Ánh mắt chợt linh động, ông nhìn tôi và chép miệng:
-Tôi thèm một bát bún riêu!
Hai tuần sau, vào ngày Chúa nhựt, tôi nhờ chị bạn thân nấu giùm hai bát bún riêu cua, bún nước để riêng, có đầy đủ chanh, rau, nước mắm, ớt hiểm tươi, đặc biệt còn thêm lọ mắm ruốc thật ngon. Tôi cho tất cả vào túi xách đem đến viện dưỡng lão Lakeview.
Mất hơn 4 giờ đường, sau cùng tôi đã tới. Như lần trước, ông lão vẫn ngồi trên xe lăn gần cửa sổ cuối phòng. Bất ngờ trông thấy tôi, ông mừng rỡ kêu lên:
-Kìa thầy...Lại về đây công tác à?
Tôi chạy tới nắm tay ông:
-Lần nầy cháu chỉ đến thăm cụ. Cháu có món quà đặc biệt mang biếu cụ.
Lộ vẻ cảm động, cụ nhoẻn cười đuôi mắt nhăn nheo.
-Bầy vẽ làm chi hà...Thầy đến thăm tui là quí rồi...
Tôi xin phép ban quản lý đưa cụ ra vườn. Vì thức ăn nặng mùi mắm ruốc nên tôi phải mang theo một lò cồn nhỏ để đun nóng ngoài trời. Cụ chăm chú nhìn tôi sớt bún ra tô, trộn rau ghém, nêm mắm ruốc, châm nước dùng sôi nghi ngút bốc hơi, rắc chút tiêu thơm lên lớp gạch cua nổi vàng trên mặt, nặn hai lát chanh tươi và sau cùng là ba quả ớt hiểm đỏ thơm nồng cay xé lưỡi. Không nén được thèm thuồng, chốc chốc cụ lại nuốt nước bọt.
Tôi đặt tô bún riêu trước mặt và mời cụ cầm đũa. Cụ run giọng:
-Cám ơn...cám ơn thầy. Không ngờ hôm nay tui còn được ăn bát bún riêu cua... Mời thầy cùng ăn cho vui.
-Cháu đã ăn xong ở nhà. Xin cụ dùng tự nhiên...Bún riêu còn nhiều, hết tô nầy cháu sẽ hâm tô khác.
Cụ trịnh trọng húp từng muỗng xúp, gắp từng đũa bún, cắn từng miếng ớt cay ngon lành như chưa từng được ăn ngon. Chốc chốc cụ dừng tay để lau mồ hôi và luôn mồm khen tấm tắc :
-Bún riêu ngon quá. Mắm ruốc thơm quá!
Tôi cảm động đặt tay lên vai cụ:
-Nếu cụ bằng lòng nhận cháu làm con, cháu sẽ thay anh Út thường xuyên thăm viếng cụ.
Cụ sững sờ nhìn tôi thật lâu như không tin ở tai mình rồi hai dòng nước mắt từ từ lăn dài trên đôi má cóp.
-Tui có được diễm phúc như vậy sao?
Tôi yêu cầu ban quản lý ghi tên tôi vào danh sách thân nhân và dặn dò khi có chuyện cần thì cứ gọi.
Năm sau....
Còn một ngày nữa là Tết. Tôi đã chuẩn bị xong quà cáp, có cả trà thơm mứt ngọt, dự định sáng hôm sau, mồng một đầu năm sẽ mang lên Lakeview mừng tuổi cụ.
Đang ngon giấc chợt có chuông điện thoại. Tôi nhấc ống nghe, bên kia đầu giây, tiếng cô y tá trực của viện Dưỡng Lão Lakeview:
-Xin lỗi... phải ông Trần?
-Vâng, chính tôi.
-Cụ Tính đau nặng...
-Tình trạng thế nào? Có nguy không?
-Đang nằm phòng hồi sinh bệnh viện thành phố.
-Cám ơn cô, ngày mai tôi sẽ đến.
-Ông nên đi sớm hơn vì sợ không còn dịp.
Tôi rụng rời!
Tuyết rơi càng lúc càng nhiều! Trời trở lạnh. Gió giật từng cơn, hoa tuyết bay nghiêng như ngàn vạn mũi tên bắn vào kiếng nghe rào rào như vải cát. Không gian mờ mịt, rừng phong trắng xóa một màu.
Tuyết phủ một lớp dầy trên mặt đất. Tôi rà thắng cho xe chạy chậm để khỏi rơi xuống hố.
Sau cùng tới được bệnh viện Hayward.
Cô cô y tá nhìn tôi ái ngại:
-Suốt đêm qua ông ấy cứ gọi tên một người nào đó, không biết phải là ông?
-Cô còn nhớ ông ấy gọi tên gì?
-Chỉ một tiếng duy nhứt, dường như “Ouk” hay “Ouc” gì đó.
Tôi đã hiểu là “thằng Út”.
Tôi hé cửa lách vào, trân trối nhìn ông rồi ngồi xuống bên giường. Người ông khô đét, hai mắt nhắm nghiền, hơi thở yếu ớt. Tôi nhẹ nhàng đặt tay lên vầng trán nhăn nheo. Ông chợt cử động rồi thều thào:
-Út...Út...
Nước mắt chực trào ra. Giờ phút nầy tôi cần phải làm một điều gì để giúp ông được mĩn cười trước khi vĩnh biệt. Tôi bóp nhẹ bàn tay già gầy guộc và nghẹn ngào:
-Thưa cha...con đã về.
Mi mắt ông động đậy cố nhướng lên nhìn, rồi kiệt sức nên từ từ khép lại nhưng môi còn mấp máy:
-Út...Út ...con...?
-Phải...Thưa cha con là Út, đứa con bất hiếu đã quay về xin cha tha thứ.
Tôi cảm được các ngón tay khô gầy đang bắt đầu cữ động trong lòng tay tôi, cố nắm giữ đứa con yêu đừng có xa rời. Nước mắt tôi vô tình rơi xuống làn môi khô nứt nẻ đang hé một nụ cười.
“Gia tài” ông để lại là một bọc vải nhỏ, trong ấy có tượng Chúa Giê Su bị đóng đinh trên cây thập giá và tấm hình đen trắng đã trổ vàng chụp gia đình 5 người đoàn tụ, đứa nhỏ nhứt còn bế trên tay, tôi đoán nó tên là Út.
* * *
Những năm sau, mỗi lần có dịp lên mạn Bắc, tôi đều ghé nghĩa trang thăm ông.
Hôm nay, trời vào Thu! Nghĩa trang chiều hoang vắng quá! Lá vàng từng chiếc rơi trên mộ. Tôi lặng người nghe khóe mắt rưng rưng...
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.....
Lê Bảo Trân